Ngữ Văn 11

Top 5 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất

Giá trị nhân đạo đang là một trong những đề tài lí thú trong nền văn học nước nhà hiện nay. “Hai đứa trẻ” mang giá trị nhân đạo đặc sắc được thể hiện  ở tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở phố huyện nghèo, ở sự phát hiện của Thạch Lam về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo nơi phố huyện và sự trân trọng của nhà văn trước những ước mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nhằm giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức và đạt được kết quả cao trong học tập thì sau đây HocThatGioi sẽ hỗ trợ, tổng hợp cho các bạn cách lập dàn ý chi tiết cùng 5 bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”. Cùng tham khảo nhé!

Top 5 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất 4
Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”

I. Dàn ý chi tiết phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Hai đứa trẻ”

1. Mở bài

– Thạch Lam là một trong những cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Dẫu là viết về cuộc sống vất vả, cơ cực, bế tắc của người nông dân, người thị dân nghèo hay viết về những khía cạnh bình thường mà nên thơ của cuộc sống thì những trang văn của ông cũng chan chứa tình người.

– Hai đứa trẻ là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, in ở tập Nắng trong vườn (1938).

– Hai đứa trẻ của Thạch Lam có giá trị nhân đạo thật sâu sắc.

2. Thân bài

a. Giá trị nhân đạo thể hiện ở tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở phố huyện nghèo:

– Ông xót xa trước cảnh nghèo đói của những con người nơi đây:

+ Những “đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ”, “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại”.

+ Thương mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt tép; tối đến mới dọn hàng nước dưới gốc cây bàng. Cuộc sống của chị vất vả, mòn mỏi, quẩn quanh, leo lét như ngọn đèn của chị, ánh sáng chỉ đủ tỏa ra một vùng nhỏ mà thôi.

+ Thương bà cụ Thi xuất hiện với tiếng cười khanh khách, với dáng điệu đi lảo đảo, động tác uống rượu thì khác lạ “Cụ ngửa cổ ra đằng sau, uống một hơi cạn sạch”.

+ Thương bác phở Siêu bán phở gánh. Thu nhập quá ít ỏi vì phở là món quà xa xỉ phẩm, hàng của bác thật ế ẩm.

+ Thương gia đình bác xẩm. Cuộc sống gia đình bác lay lắt như ngọn đèn trước gió. Gia tài của bác là chiếc đàn bầu và chiếc thau để xin tiền. Cuộc sống của bác bấp bênh. Cái đói, cái chết luôn kề cận.

+ Thương chị em Liên. Cuộc sống của chị em Liên cũng chẳng khá hơn cuộc sống của mọi người. Cửa hàng tạp hoá của chị em Liên “nhỏ xíu”. Hàng hoá thì lèo tèo mà khách hàng là những người nghèo khó.

– Ông cảm thương cho cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, tù túng của những con người nơi phố huyện nghèo.

b. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự phát hiện của Thạch Lam về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo nơi phố huyện.

+ Họ là những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay mẹ trông coi gian hàng tạp hoá. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,…

+ Họ là những người giàu lòng thương yêu. Liên thương những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.

c. Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự trân trọng của nhà văn trước những ước mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

– Ông trân trọng những hoài niệm, mơ ước của chị em Liên: Hai chị em mong ước được thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia đình còn sống ở Hà Nội. Đoàn tàu như đem đến cho hai chị em Liên “một chút thế giới khác”.

– Ông muốn thức tỉnh những con người ở phố huyện nghèo, hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

3. Kết bài

– Giá trị nhân đạo được thể hiện thật sâu sắc trong tác phẩm: xót thương những con người nghèo khổ, phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người lao động, trân trọng những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn của họ.

– Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.

II. Top 5 bài mẫu phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” hay nhất

Qua dàn ý chi tiết tổng hợp những luận điểm chính phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Hai đứa trẻ trên thì 5 bài văn mẫu sau đây sẽ giúp các bạn học sinh trang bị đầy đủ cách thức triển khai và liên kết các ý, luận điểm ấy với nhau một cách chặt chẽ nhất.

Top 5 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất 5
Ảnh minh họa

1. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” – mẫu 1

Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và lấy từ những chân cảm với đời, với những con người ở tầng lớp nghèo, thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, nhạy cảm trước cuộc sống của mọi người xung quanh. Chính tình cảm và sự quý mến ấy của ông đã giúp ông nhận thức sâu sắc tinh tế, “hai đứa trẻ” là một tác phẩm của Thạch Lam đã làm tái hiện lên hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng mới mẻ, đặc sắc, trỗi dậy được những rung động cực điểm trong tâm hồn bao thế hệ bạn đọc.

Tác phẩm Hai Đứa Trẻ được in trong tập “nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, chuyện nhưng không có chuyện chỉ là câu chuyện tâm tình, câu chuyện không phát triển theo lôgic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi Phố huyện nghèo, hẻo lánh, với những con người nhỏ bé, những cảnh đơn điệu, hắt hiu….Phải chăng câu chuyện ấy cũng chính là câu chuyện đời tác giả – một cuộc đời buồn Giản dị mà tâm hồn sâu sắc.

Sinh ra tại Hà Nội nhưng thủa nhỏ Thạch Lam sống ở quê ngoại, ở phố Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Đó là một Phố huyện nghèo, hẻo lánh tiêu điều mà suốt thời thơ ấu ông đã ở đó cùng một người chị gái, sống những năm tháng buồn tẻ lay lắt, nhạt nhòa. Có lẽ truyện ngắn “hai đứa trẻ” chính là một trong những nhật ký về quãng thời gian Thạch Lam sống ở đây, nên ông mới thấu hiểu được nỗi khổ của những kiếp người nhỏ bé như vậy, từ đó vẽ nên một bức tranh Phố huyện U buồn tĩnh mạch, để thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách sâu sắc.

Trước hết giá trị hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh Phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quấn quanh bế tắc, đó chính là hình ảnh khái quát đầy đủ cái tăm tối chật hẹp của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Bức tranh đời sống Phố huyện mở ra bằng một cảnh chiều tàn với những âm thanh quen thuộc của đồng quê, bắt đầu bằng tiếng trống thu không vang vọng như đang gọi “chiều chiều rồi” một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, theo gió nhẹ đưa vào, hòa vào đó là tiếng muỗi kêu thật gợi buồn, lại một buổi chiều nữa mà Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời lụi tàn, đỏ rực như lửa cháy khiến những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, tiếp đến là những lũy tre làng đen lại vòi cắt hình rõ rệt trên nền trời, cảnh thiên nhiên Phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi mùi ẩm mốc bốc lên, hòa với hơi nóng của ban ngày, lẫn với cát bụi….

Với hai chị em Liên đó là mùi riêng của đất, mùi quê hương bình dị quen thuộc bên âm thanh mờ nhạt và thưa thớt, đến mức chỉ còn nghe thấy tiếng hoa bàng rụng xuống trên tay khe khẽ từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng đen sẫm hơn nữa, bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó những điểm sáng le lói lập lòe yếu ớt của đàn đom đóm một đốm sáng lờ mờ của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những hạt sáng nhỏ nhoi, lọt qua bên cửa, rồi gian hàng chị em Liên…..

Những đốm sáng trong đêm tối ấy phải chăng là biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé vô danh sống cuộc sống leo lét, vất vưởng trong Đêm tối của xã hội cũ và chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những hạt cát cuộc sống. Thạch Lam đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh buồn tẻ nơi Phố huyện nghèo, đó là gia đình chị Tý ngày mò cua bắt tép, tối dọn hàng, dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài Của chị chỉ có một chõng hàng, hay đó là bà cụ Thi điên với điệu cười khanh khách, đau khổ, là bác Siêu với gánh phở xa xỉ, gia đình bác Xẩm với điệu đàn bầu run bần bật.

Và cuối cùng là hai chị em Liên chính là mảnh đời đáng thương nhất, có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn tẻ của cuộc sống nơi Phố huyện. Chừng ấy mảnh đời kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một xã hội sa sút tiêu điều, tồi tệ, một xã hội “đang nổi váng lên” đó là một xã hội với những hình nhân biết cử động. Trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Tỏa Nhị Kiều” họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt, như tàu không đổi chuyến những kiếp người quẩn quanh đó đã đi sâu vào trong thơ của Huy Cận:

Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng bằng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Mà nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện

Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực. Thạch Lam đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen thuộc bình lặng nhưng lẩn khuất leo lét trong bóng tối tĩnh mịch để làm nên một bức tranh hiện thực thật khó quên.

Đọc xong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam, Ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp, bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải chứng kiến những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa một tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Tư tưởng nhân đạo ấy trước hết là toát lên từ niềm xót thương chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu hắt hiu nơi Phố huyện nhỏ, nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô cùng trong cái ao đời phẳng lặng, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống. Từ gia đình chị Tý ngày nào cũng mò cua bắt ốc, tối dọn hàng cứ đều đều như thế dù chẳng kiếm được là bao, bác Siêu với gánh phở của mình, hy vọng sẽ kiếm được chút gì đó để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Nhưng ở nơi Phố huyện này phở là một món hàng xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế là rất cao. Bác Xẩm dùng lời ca tiếng hát để kiếm sống nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo lấy đâu ra tiền để thưởng thức âm nhạc.

Vì vậy cái nghèo đã luôn rình rập quanh gia đình bác, đây chính là điển hình cho những cuộc đời lay lắt, ngoi ngóp nơi Phố huyện, đó chỉ là sự cầm chừng sự tồn tại trong vô vọng chứ không phải sự sống thực, phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa. Khi ta bắt gặp hình ảnh cụ Thi điên, cụ chỉ đủ tiền để mua một ngụm rượu uống một hơi cạn sạch.

Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo, với tiếng cười khanh khách lan vào trong bóng đêm và cuối cùng là hai đứa trẻ chính là Liên và An, chúng còn nhỏ nhưng đã phải thay mẹ quán xuyến cửa hàng, hơn nữa chúng còn có một tuổi thơ

tươi đẹp nơi Hà Nội rực rỡ ánh đèn. Tất cả họ từ chị em Liên đến mẹ con chị Tí, gia đình bác Xẩm, Bác Siêu, cụ Thi điên đều tồn tại trong một nhịp sống trẻ, cuộc sống bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán lặp đi lặp lại. Ngày nào cũng vậy chiều nào cũng thế, đem ra rồi lại dọn vào , gánh đi rồi lại

gánh về. Đọc và thấu hiểu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt sống bằng phẳng như Nam Cao nói trong Sống Mòn “Cuộc sống cứ mòn đi, đổ ra,bốc lên”…Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác như Xuân Diệu với khát vọng sống có ý nghĩa

Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm

Không chỉ dừng lại ở sự xót thương với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện, Thạch Lam dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một tia hy vọng, một ước mơ cháy bỏng. Ánh Sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn dẫu chỉ là trong mơ, chừng ấy con người khi đêm đã về khuya nên vẫn thao thức không ngủ cho tới khi nghe tiếng còi xe lửa ở đâu đó vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi, Liên đã kêu lên “Dậy đi An! Tàu đến rồi”.

Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông, giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt mang theo bao ước mơ và hoài bão, đi tới nơi nào chẳng rõ nên hai chị em Liên vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh leo lét trên toa sau cùng xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre, mà Liên vẫn cứ lặng theo mơ tưởng, dường như Liên đang nhấp nhói trong lòng một ước ao đổi đời, một cuộc sống hiện tại vẫn nhen nhóm một niềm tin hi vọng, một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng hơn như những ngày ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường trong mơ, nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến. Ánh mắt của cô bé cứ đắm chìm mãi vào cõi mơ, tưởng như nghĩ về quá khứ về tương lai và hiện tại, quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ nhạt, mong manh, còn hiện tại thì ngập bóng tối….

Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân đạo của của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thấu hiểu được. Với chị em Liên chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ Là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tươi sáng nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kỳ, nó như một ánh hào quang, một vệt sáng rồi tắt dần xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao đây vẫn là một niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi nỗi buồn tẻ nhạt của hiện tại, để hai chị em Liên chìm vào trong giấc ngủ sau một ngày buồn tẻ.

Đọc xong truyện ngắn hai đứa trẻ ta có cảm giác như được đọc một bài thơ trữ tình đượm buồn, bởi qua tâm trạng của hai chị em Liên, ta rất dễ nhận ra một tiếng nói tâm tình thầm kín nhẹ nhàng, nhưng thấm thía vô cùng trong lòng người đọc, qua đó ta còn thấy người được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ qua việc thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực một cách mới mẻ đặc sắc, với sự kết hợp hài hòa giữa hai giá trị lớn này truyện ngắn Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc.

2. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” – mẫu 2

“Loại văn chương không đáng thờ là loại văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương, loại văn chương đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. (Nguyễn Văn Siêu). Đúng như vậy! Văn chương là món ăn tinh thần của nhân loại. Chính vì vậy, văn chương luôn phải phản ánh chính xác cuộc sống con người, luôn phải hướng về con người và đồng cảm với con người. Đó cũng chính là hai giá trị lớn của văn chương là hiện thực và nhân đạo. Trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, hai giá trị này lại được nâng cao vị trí của mình để phản ánh chính xác cuộc sống của con người. Một trong số những tác phẩm như vậy đó chính là tác phẩm “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).

Đầu tiên, “Hai đứa trẻ” mang một giá trị hiện thực sâu sắc. Vậy giá trị hiện thực là gì? Giá trị hiện thực là phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh. Một tác phẩm văn học nào cũng có giá trị hiện thực vì văn học bắt nguồn từ đời sống, bắt nguồn từ hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, bắt nguồn từ hiện thực, tình cảm, tâm lí… Trong tác phẩm văn học, giá trị hiện thực là sự phản ánh chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh; chỉ ra nguyên nhân gây đau khổ cho con người và miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Ở mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được miêu tả đa dạng. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm như thế.

Trước tiên, chất hiện thực thể hiện rất rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quẩn quanh và bế tắc. Bức tranh mở ra bằng âm thanh của tiếng trống thu không. Thứ âm thanh không vô tình và chất chứa cả nỗi niềm của con người. Tiếng trống vang xa gọi chiều về nhưng cũng gọi về cả một nỗi niềm xao xác. Tiếng trống thu không như một bức thông điệp báo hiệu chiều về là âm thanh của ngày tàn nơi phố huyện “từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”. Tiếng trống đời thực mà xa xăm như vọng về những chiều quê muôn thuở “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn đỏ rực như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những lũy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều (êm ả như ru) trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được ngọn gió nhẹ hoang vu mang vào phố huyện. Hòa vào đó là tiếng muỗi vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hòa vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Đối với hai chị em Liên đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống âm thanh có vẻ mờ nhạt hơn đến nỗi Liên chỉ nghe thấy hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ. Phố huyện giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc và mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xầm đen hơn nữa”. Cảnh vật thật đẹp nhưng buồn, thấm thía vào tâm hồn chúng ta. Chỉ bằng vài nét phác họa nhưng cũng để cho ta thấy có một nỗi buồn bâng khuâng, man mác, mơ hồ trong khung cảnh làng quê.

Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy, lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Thạch Lam đã cho ta thấy cảnh sống nơi phố huyện: không ồn ào, to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống, nhà văn đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Giữa cái cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Bác Hồ đã từng nói:

Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan

Trẻ thơ là nơi khởi đầu của biết bao mơ mộng, tươi sáng cho tương lai. Thế nhưng lũ trẻ ở cái phố huyện này lại phải đi kiếm miếng ăn trang trải cuộc sống hàng ngày. Tuổi thơ của những đứa trẻ ở đây đã phải sớm giã từ nhìn thấy cảnh ấy, Liên động lòng thương nhưng chính Liên cũng không có tiền để cho chúng nó.

Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiện thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước. Cảnh đó hiện lên qua đôi mắt của Liên – Một ánh mắt trẻ con: “Thằng cu bé xách cái điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra, mẹ nó theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay không biết mang theo bao nhiêu đồ đạc, tất cả các cửa hàng của chị”. Cuộc sống của gia đình chị cũng thật vất vả. Ngày thì mò cua bắt tép, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị cũng chỉ là một chõng hàng. Đây chính là một điển hình cho cuộc sống lay lắt ngoi ngóp giữa phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng, không phải là cuộc sống thực sự.

Tiếp đến là hình ảnh cụ Thi điên mang đến và mang theo một tiếng cười khanh khách nhỏ dần. Một cụ Thi điên cuộc đời không rõ ràng. Giọng nói, lời khen, cử chỉ xoa đầu… thật hiền. Nhưng cái cách ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, cái dáng lảo đảo, điệu cười khanh khách rõ ràng đang ẩn chứa một nỗi lòng u uất cứ chìm dần vào trong bóng đêm… Phải chăng đó chính là sản phẩm của cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa rồi! Thật đáng thương!

Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu. Gánh phở như hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sự sống. Bác Siêu xuất hiện với những chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm, mất đi rồi lại hiện ra. Trong đêm tối, bóng bác mênh mông ngã xuống đất và kéo dài đến tận hàng rào. Cuộc đời con người giống như cái bóng, cái bóng ấy cứ kéo dài mãi mà lại ẩn hiện để thấy được một kiếp người lam lũ, mờ nhạt và buồn tẻ của con người. Tưởng rằng cái món hàng này rất sáng sủa nhưng cũng rất ế ẩm bởi phở trở thành một món quà xa xỉ ở cái phố huyện này.

Cùng với đó là gia đình nhà bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, bám sát mặt đất trong bóng tối của đêm khuya. Ở cái phố huyện này, cơm còn đang chẳng có mà ăn huống chi đi nghe gẩy đàn bầu. Chính vì vậy, cuộc sống của họ gần với cuộc sống của loài bò sát hơn là cuộc sống của con người khi bác Xẩm sờ soạng trên manh chiếu rách và đứa con nghịch ngợm rác bẩn ngoài đất “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng” hàm chứa sự đau đớn run rẩy tủi hờn của cái nghèo khổ hiu hắt.

Cuối cùng, nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Chiều tàn, Liên ngồi lặng bên quả thuốc sơn đen, cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, tối, muỗi, gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn bằng tấm phên nứa, dán giấy nhật trình. Cha của hai em mất việc phải rời từ Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng nhỏ xíu, nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Thấp thoáng sau những người đó còn là bà Lực, cụ Chi, người mẹ tảo tần, người cha mất việc, bà lão móm,… những con người dân quê chỉ có tiền mua chịu nửa bánh xà phòng, chủ nhân của gian hàng có tấm phên nứa, dán giấy nhật trình, cảnh sống bần hàn hiện lên qua từng đường nét với nhịp sống tẻ nhạt, buồn bã.

Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, một xã hội sa sút, tiêu điều, trì trệ, một cái xã hội “mọc mốc”. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu: “Tỏa nhị Kiều”. Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời tẻ nhạt như những con tàu không đổi chuyến. Những kiếp người quẩn quanh đó đã đi vào trong thơ của Huy Cận:

Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện 

Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, Thạch Lam đã lặng lẽ, góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm, bình lặng những đốm sáng nhỏ bé, leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó quên.

Bức tranh hiện thực có sức ám ảnh bởi lẽ Thạch Lam đã vẽ bằng bút pháp lãng mạn. Bút pháp giàu cảm xúc, yêu thiên nhiên, cái tôi tự ý thức, cảm nhận cái vô nghĩa của cuộc sống quanh mình. Trong bóng tối, hai chị em ngồi chõng ngắm sao, ngắm phố hướng về những nguồn sáng. Khi trời vào đêm, hai chị em ngước nhìn những vì sao. Mỗi đêm chúng sống một hiện thực đầy mộng tưởng. Hai đứa trẻ nghèo không có tài sản gì, trừ bóng tối và từ bóng tối ấy dấy lên những đốm lửa để soi rọi tâm hồn chúng. Ba lần hướng về ánh sáng cho đỡ buồn, lần thứ tư ánh sáng đoàn tàu mới là sự mong mỏi của chị em Liên, để từ đó cháy lên niềm khát khao về một thế giới tươi sáng hơn. Đẹp mà lành, dịu mà xót, yên ả mà khuấy động, Thạch Lam có nói gì nhiều đâu, còn Liên và An hay ngững người dân phố huyện chỉ yên lặng lắng nghe và lặng nhìn. Vậy mà mỗi thời khắc đi qua đều để lại những dư vị khó quên, xao xuyến như thịt da, sâu thẳm như tâm hồn, khẽ gợi trong ta bao niềm thổn thức.

Bên cạnh giá trị hiện thực đầy sâu sắc thì “Hai đứa trẻ” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Vậy giá trị nhân đạo là gì? Giá trị nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người. Một nhà văn chân chính là nhà văn nhân đạo chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người. Trong tác phẩm văn học, giá trị nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống của con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh, phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người, trân trọng những phẩm chất, khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người… Đồng thời tư tưởng nhân đạo còn thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu… Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử, xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

Đầu tiên, “Hai đứa trẻ” thể hiện thái độ đồng cảm, xót thương với số phận bất hạnh trong xã hội cũ trước năm 1945. Qua khung cảnh phố huyện nghèo đói, lụi tàn, Thạch Lam muốn bày tỏ niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng của hạnh phúc. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt, vô nghĩa, đời sống cạn kiệt, mòn mỏi cả về vật chất lẫn tinh thần. Chị Tí ngày nào cũng dọn hàng, cứ nhịp ấy dù chẳng bán được bao chị vẫn dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Bác Siêu thì đêm nào cũng bán phở và rất ế ẩm. Cụ Thi điên ngày nào cũng ghé qua hàng của Liên để mua rượu… Và đặc biệt là Liên – một cô bé mới lớn. Buổi chiều nào em cũng phải chứng kiến cái cảnh đượm buồn của ngày tàn, khi đêm đến thì lại chứng kiến cái “ao đời phẳng lặng”. Tâm hồn của Liên vốn dĩ rất tinh tế, rất nhạy cảm nên em luôn cảm nhận được mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Nhưng cứ sống mãi trong cái cảnh bình lặng này thì tâm hồn Liên sẽ dần bị chai sạn, sẽ dần bị đông cứng… Những người trong phố huyện này sống một cách rất tẻ nhạt, vô vị, họ như tồn tại theo chiều quay của kim đồng hồ vậy, cứ hết hôm nay lại đến ngày mai. Cuộc sống này đã được Xuân Diệu nói: “hết cơm mai rồi lại cơm chiều”. Cuộc sống thì thiếu thốn đủ thứ cả về cái ăn, cái mặc,… đến cái tinh thần… Thạch Lam đã cảm thấy đau đớn, xót xa thay cho những cảnh đời sống một cách tẻ nhạt đến vô vị như vậy.

Thạch Lam trân trọng tình người, đồng cảm với những ước mơ, nguyện vọng chính đáng, ý thức cuộc sống hạnh phúc cá nhân của con người. Qua “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng khát khao cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. Sống giữa phố huyện nghèo và đầy bóng tối nên những người nơi phố huyện trong đó có chị em Liên vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm đi qua. Chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng của bác Siêu. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ ríu cả mắt” vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống” vẫn không quên dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”. Đó là sự mong muốn được cải cách về tinh thần. Chúng cố thức đợi tàu không phải là vì mục đích bán hàng như lời mẹ dặn, bởi lẽ năm nay mùa màng kém, người buôn bán, người đi lại ít. Nếu có khách họ chỉ mua bao diêm hoặc phong thuốc lào là cùng, hai chị em thức chờ tàu xuất phát từ cuộc sống tinh thần.

Khi con tàu rầm rộ đến, Liên gọi em dậy. Mặc dù đang ngủ say, An vội bật dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Dù chỉ trong chốc lát nhưng hình ảnh “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” thì đọng lại mãi. Đứng ngắm lặng con tàu đi qua, Liên không trả lời câu hỏi của em, trong tâm hồn cô, cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống: “Liên lặng theo mơ tưởng Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo…” Cùng với con tàu hai chị em trở về quá khứ đẹp tươi, con tàu chạy từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã mất, con tàu chính là tia hồi quang về quá khứ. Cũng cùng với con tàu hai chị em còn được sống trong một thế giới mới tốt hơn, một thế giới sáng sủa và sôi động hơn rất nhiều lần so với cuộc sống hiện tại của chúng bây giờ.

Thạch Lam sống gắn bó và nặng lòng với tầng lớp thị dân nghèo, những kiếp người nhỏ bé sống quẩn quanh. Nên ông viết về họ với một niềm chân tâm, chân cảm, thấu hiểu tột cùng với muôn nỗi khốn khó trong cuộc sống của họ. Trước đây, văn học chú ý đến cái đói vật chất thì giờ đây văn học của ý thức cá nhân mới chạm đến được cái buồn chán cá nhân, tới nỗi đau riêng của mỗi con người. Cái nghèo là cái đói vật chất, cái buồn chán là cái đói tinh thần, âm ỉ, tê tái hơn. Nỗi đau tinh thần của con người nơi phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng một sắc thái nhẹ nhàng nhưng gieo vào lòng người được rất nhiều bận bịu. Ngòi bút Thạch Lam tin yêu con người nên trong tác phẩm của ông dù nhân vật phải sống mòn mỏi, tù túng thì nhà văn vẫn dẫn dắt nhân vật hướng về phía ánh sáng của sự sống. Vì thế, “Hai đứa trẻ” mang âm hưởng lãng mạn bay bổng.

Để thể hiện rõ giá trị của văn bản thì nghệ thuật cũng là một phần quan trọng. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” không có cốt truyện nó như một bài thơ. Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản, đối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa quá khứ và hiện thực. Điều đó sau những dòng chữ, ta lại thấy một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người.

Cùng yêu thương con người, tôn trọng con người nhưng Thạch Lam chưa chỉ ra con đường để nhân vật của mình đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui của cuộc đời mới. Họ nhìn đời, nhìn người bằng con mắt tình thương nhưng chưa gắn với tinh thần đấu tranh cách mạng, kết thúc truyện vẫn là chi tiết phố huyện trùm trong tĩnh mịch và bóng tối.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một lời nhận xét rất độc đáo “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng đồng thời cũng gióng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Nơi cái thế giới của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã trở thành thói quen của cảm xúc và ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ” thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. Nói theo lời Nguyễn Tuân, ta có thể thêm: đọc tác phẩm của Thạch Lam, thấy bận bịu vô hạn về một ước mơ, một khát vọng tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân bản từ hiện thực cuộc sống.

3. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” – mẫu 3

Thạch Lam là một cây bút nổi tiếng trong dòng văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông luôn chứa đựng những tình cảm dịu dàng, lắng đọng, những lãng mạn, tinh tế của cuộc sống thường ngày. Ông kể những câu chuyện không phải chuyện, chủ yếu khai thác nội tâm nhạy cảm của nhân vật, để phản ánh nỗi lòng, tâm tư của mình vào trong câu chuyện, vừa dung dị, nhẹ nhàng, lại vô cùng thâm trầm, sâu sắc. Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam. Ông đã dựng lên một bức tranh của một phố huyện nghèo điển hình của Việt Nam và đặt vào trong đó những suy tư, suy ngẫm của mình cũng niềm cảm thương sâu sắc cho số kiếp của mỗi con người. Đó chính là điều tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm Hai đứa trẻ.

Giá trị nhân đạo là niềm cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho những nhân vật trong tác phẩm của mình, là sự trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người đồng thời trân trọng, tin tưởng vào những ước mơ của những con người đó. Tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ bày tỏ quan điểm của cá nhân ông mà còn là niềm thương cảm sâu sắc của ông dành cho những kiếp người, những nhân vật trong tác phẩm. Chính vì vậy mà Hai đứa trẻ mang một giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc. Nó được thể hiện trong niềm cảm thông, xót thương của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn trong phố huyện nghèo đói ấy, là sự phát hiện những phẩm chất cao đẹp của những con người lao động nghèo nơi đây, là sự trân trọng những khát vọng của những kiếp người lao động nghèo, đồng thời sâu kín trong đó là sự lên án một xã hội thực dân Pháp thuộc đang đày ải người dân Việt Nam.

Đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy bao trùm lên cả câu chuyện là một cuộc sống với những kiếp người nghèo tới xơ xác, những kiếp đời tàn giữa một phố huyện đầy u tối, thê lương. Cái khung cảnh của phố huyện ấy cũng hiện ra ở một thời điểm mà ngày sắp tàn, sắp kết thúc, tuy đẹp đẽ nhưng lại chỉ là chút ánh nắng cuối ngày, chỉ kịp lóe rạng rồi biến vào trong đêm đen, giống như những con người ở đây với khát vọng của họ. Không gian hiện lên với sự huy hoàng, đẹp rực rỡ của hoàng hôn buông trải “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”, khung cảnh đẹp rực rỡ, lộng lẫy là thế nhưng nó chỉ là một cảnh ngày tàn, như “một hòn than sắp tàn” trong bếp lửa cháy, gợi ra trước mắt người đọc chúng ra là một nỗi buồn man mác.

Trên cái nền cảnh nhá nhem tối ấy, con người hiện lên cũng thật đơn sơ. Hình ảnh của một chị Tí cùng đứa con bày một gian hàng nước còm cõi, một bác Siêu với gánh phở trên vai, hai chị em Liên với cái gian hàng tạp hóa “nhỏ xíu”, cụ Thi điên say rượu với tiếng cười khanh khách trong đêm, gia đình bác xẩm mù đang ngồi dưới nền đất, … Tất cả hòa quyện tạo nên một bức tranh trầm buồn cùng với không gian lặng lẽ, u tối của nơi phố huyện nghèo này. Ngòi bút chấm phá của Thạch Lam chỉ điểm vài nét trên bức tranh với gam màu đỏ đen hỗn độn ấy nhưng lại khiến cho chúng ta như thấy được cả một làng quê Việt Nam tiêu biểu cho xã hội ta dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Và từ đấy, người ta thấy được nỗi thương cảm của Thạch Lam dành cho con người.

Đầu tiên khi đọc Hai đứa trẻ, người ta thấy được một nỗi xót thương sâu sắc vô cùng của Thạch Lam dành cho những kiếp người tàn nơi phố huyện nghèo này. Ông xót xa trước những cảnh đói nghèo xơ xác của nơi đây. Hình ảnh những đứa trẻ ấy hiện lên trên nền cái chợ tàn “chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Trên cái khung cảnh tàn tạ ấy, “những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Cuộc sống của những đứa trẻ đang tuổi đến trường, tuổi ăn tuổi chơi lại phải quanh quẩn trên cái đống rác rưởi của người ta để lại. Những kiếp sống của chúng rồi cũng sẽ lụi tàn như bố mẹ chúng, bởi cái đói cái nghèo đã cướp đi hết của chúng niềm vui, sự ngây thơ của con trẻ. Chúng quanh quẩn bên cái chợ tàn, “tìm tòi, nhặt nhạnh”, gieo niềm hi vọng trên đống rác của người ta để lại. Thạch Lam đã tinh tế gieo vào lòng chúng ta một nỗi thương cảm sâu sắc dành cho những đứa trẻ nhỏ, cũng từ đó mà ta nhận ra được cái tình cảm thương mến mà ông dành cho chúng. Ông thương cảm đời của chúng mà xót xa trước cái nghèo mà chúng đang phải chịu đựng. Và chính ông đã hóa thân vào Liên đã mà chứng kiến mà “động lòng thương” cho những đứa trẻ ấy. Ông muốn mang tới cho chúng một chút gì đó, bù đắp cho chúng thế nhưng lại bất lực vô cùng khi “chính chị cũng chẳng có tiền để mà cho chúng”.

Không chỉ cảm thương cho số phận của những đứa trẻ nhà nghèo ven cái chợ tàn, ông còn xót thương cho những mảnh đời còm cõi khác như mẹ con chị Tí chẳng hạn. Chị Tí là một kiếp người điển hình trong phố huyện ấy, một kiếp đời vất vả suốt năm tháng mà không thoát nổi cái đói nghèo, tăm tối. Chị Tí là hình ảnh của một thân cò, quanh năm lặn lội, tảo tần, sáng chị đi mò cua bắt tép, tối về lại bày biện cái quán hàng nước bé tí xíu để kiếm thêm. Cái quán nước của chị cũng còm cõi, nhỏ nhoi như chính chị, bởi tất cả đồ đạc của cái quán ấy, chị đều có thể mang, vác, đội, xách được. Cái quán ấy chỉ có vài bát nước chè xanh, vài điếu thuốc lào, khách có đến cũng chỉ là bác phu, chú lính lệ,…hay những con người cũng mang cái số kiếp như chị. Vất vả là thế nhưng cũng “chả kiếm được là bao”, như cái câu nói chị trả lời cho Liên “ối chao, sớm muộn cũng có ăn thua gì!”. Đó là tiếng thở dài ngao ngán cho một đời người bế tắc, mòn mỏi, quẩn quanh, đơn điệu. Và Thạch Lam đã cúi xuống kiếp người như chị Tí để mà thương cảm, mà xót thương cho số kiếp của chị. Bởi ông hiểu rằng, cuộc sống của chị cũng chỉ nhỏ bé, le lói như cái quầng sáng đèn ở cái chõng nước của chị mà thôi.

Rồi đến cảnh đời của bác Siêu, Thạch Lam cũng đã vô cùng xót xa khi nhìn thấy cuộc sống của bác. Cái gánh phở nhỏ bé trên đôi vai rong ruổi là một “thứ quà xa xỉ, nhiều tiền” mà không phải ai cũng có đủ tiền để mua. Chính vì thế, gánh hàng của bác luôn bị ế hàng. Thế nhưng, chiều nào cũng thế, gánh phở của bác cứ chiều tối lại xuất hiện, nhóm lửa, đến đêm lại gánh trở lại làng. Nhịp sống của bác cứ quẩn quanh cái bếp lửa ấy, đơn điệu, tẻ nhạt như chính cuộc đời của bác và Thạch Lam đã cảm thấy xót thương vô cùng cho những con người như bác. Ông hiểu rằng, mỗi lần nhóm lửa lên, bác Siêu nhóm tất cả niềm hi vọng của mình, thứ hi vọng về một ngày mai khác hơn, về một tương lai tốt đẹp hơn, để đến khi bếp lửa lụi tàn, bác lại trở về với cuộc sống tăm tối, mòn mỏi của chính mình.

Gia đình bác xẩm mù cũng vậy. Một người mù làm nghề hát rong, cả gia tài chỉ có “manh chiếu, cái thau sắt trắng”, cùng với chiếc đàn mà phải gánh vác cả một gia đình. Cuộc sống của gia đình bác là những ngày tha phương cầu thực, lấy gầm cầu, vỉa hè làm nhà, còn đứa con chỉ có thể nghịch ngợm “nhặt rác trên nền đất bẩn”. Kiếp sống của gia đình bác cũng tối tăm như thế, cũng nghèo đói như thế.

Rồi bà cụ Thi điên – một cụ già nghiện rượu và “bị điên”. Cụ là biểu tượng cho một kiếp người đã đi gần hết cuộc đời mình trong cái kiếp đời tàn tạ, tăm tối đến thê lương ấy. Thạch Lam đã lưu lại hình ảnh trong lòng chúng ta về cụ Thi điên là “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Tiếng cười ấy phải chăng là tiếng cười chua chát của một con người đã đi gần hết cái số kiếp tăm tối của chính mình? Và Thạch Lam đã thật đồng cảm với nỗi đau khổ ấy của một kiếp người, ông xót thương cho cụ, cho bác Siêu, bác xẩm mù, cho tất cả những con người nơi phố huyện tù túng này mà đặc biệt là chị em Liên.

Chị em Liên An vốn có cuộc sống dư dả trên Hà Nội nếu như thầy Liên không mất việc mà đẩy cả gia đình vào bế tắc. Cả gia đình phải tạm xa Hà Nội, trở về quê, chị em Liên An thì trông hàng tạp hóa giúp mẹ, mẹ của Liên thì phải đi làm hàng xáo. Cái gian hàng “tạp hóa bé xíu” của hai chị em đã khắc thành ấn tượng trong lòng người đọc về cái nghèo của nơi phố huyện này. Cái gian hàng ấy chỉ có vài bánh xà phòng, cút rượu, mấy quả sơn đen, .., mà bán suốt của “ngày phiên” lẫn ngày thường “mà bán cũng chẳng ăn thua gì”. Cuộc sống của hai chị em Liên là chuỗi ngày sáng dọn ra tối dọn vào, đơn điệu, tẻ nhạt như chính cuộc đời của hai chị em. Những niềm vui con trẻ cũng chẳng còn thấy trên gương mặt non nớt của hai chị em Liên An nữa. Thạch Lam thương lắm, xót xa lắm trước cái cuộc sống nghèo đói, tăm tối này đã cướp đi cả những khoảng khắc còn trẻ của những đứa trẻ. Ông xót xa, ông đồng cảm với họ, với những kiếp đời tàn nơi phố huyện này.

Bằng những rung động mơ hồ, đầy tinh tế của mình, Thạch Lam đã vẽ lên bức tranh một phố huyện nghèo với những kiếp đời tàn, và đặt trong đó là niềm xót thương vô cùng của mình đối với những con người lao động nơi đây.

Không chỉ thương xót cho những thân phận, những kiếp đời tàn nơi phố huyện tăm tối này, Thạch Lam còn tinh tế khi nhận ra rằng, mặc dù sống trong đói nghèo, tàn tạ là thế, con người nơi đây vẫn có những phẩm chất tốt đẹp vô ngần của người lao động. Và Thạch Lam – một con người ở tầng lớp trên, tầng lớp tiểu tư sản, đã vô cùng sâu sắc phát hiện ra và trân trọng những phẩm chất đáng quý ấy ở những con người nghèo khổ kia.

Ông phát hiện thấy ở con người nơi phố huyện nghèo này, họ đói nghèo đấy, cuộc sống đơn điệu, tù túng, vô nghĩa đấy nhưng họ không hề buông thả mà luôn chịu thương, chịu khó, tần tảo sớm hôm để mong có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, mặc dù công việc họ làm cũng chẳng giúp họ khá hơn là bao. Như một chị Tí, “ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị dọn cái hàng nước này”, mà cái hàng nước bé xíu của chị cũng chả bán gì nhiều ngoài mấy chén nước chè và đôi điếu thuốc lào. Thu nhập của cái quán nước “chả kiếm được bao nhiêu”, thế nhưng “chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”, chẳng hôm nào bỏ ngỏ. Sự tần tảo của chị đã khiến cho Thạch Lam phải cảm động, ông thương chị, ông thấy được cái vẻ đẹp trong sự vất vả, tần tảo sớm hôm của chị. Cái sự tần tảo ấy của chị là phẩm chất tốt đẹp, đáng khâm phục của tất cả những người phụ nữ Việt Nam, cũng giống như vợ của Tú Xương tần tảo nuôi chồng, khiến ông phải cảm động mà thương xót:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồn
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Thạch Lam cũng phát hiện ra ở bác Siêu, bác xẩm mù hay chị em Liên cái phẩm chất cao quý ấy của người lao động. Đó là dù có thế nào, cuộc sống có bấp bênh, mệt mỏi ra sao, họ vẫn luôn luôn chăm chỉ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Bác Siêu với “tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt”, chiều nào cũng gánh gánh phở ngồi chờ khách. Ngày nào bác cũng nhóm lửa, “thổi vào cái ống nứa con”, để mùi phở thơm thoảng hết con phố huyện nghèo. Mặc dù hàng phở của bác là “một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền” mà hiếm ai có thể mua được, thế nên luôn ế khách, nhưng bác vẫn hàng ngày chăm chỉ, gánh đôi gánh phở bán ở phố lúc chiều, đến đêm lại quẩy vào làng. Thế mới biết, người lao động chưa bao giờ thôi tần tảo, chưa bao giờ thôi hi vọng vào sự chăm chỉ sẽ giúp họ trải qua những đói nghèo, tăm tối của cuộc sống. Đó chính là những phẩm chất đẹp đẽ mà Thạch Lam đã vô cùng tinh tế khi phát hiện ra.

Rồi hai chị em Liên, hai chị em vốn mới chỉ là những đứa trẻ, thế nhưng đã thay mẹ gánh vác một phần gia đình. Với độ tuổi của An hay của Liên, chúng vốn phải được vui chơi, phải được tận hưởng quãng đời thơ ấu hạnh phúc, không phải lo lắng cơm áo gạo tiền, thế nhưng, sự nghèo đói đã khiến hai chị em phải trở thành những người lớn. Hai chị em trông coi “cái gian hàng tạp hóa bé xíu” để mẹ em có thể đi đong gạo, làm hàng xáo. Cái quán ấy “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì” nhưng chị em Liên vẫn luôn luôn đều đặn mở cửa đón khách tới tận đêm khuya, sau khi đoàn tàu cuối cùng rời đi mới đóng cửa. Tác giả đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái tần tảo và chịu thương chịu khó của những con người lao động nơi đây dù rằng cuộc sống của họ nghèo đói, họ vẫn luôn cố gắng vươn lên, cố gắng mỗi ngày.

Không chỉ thế, Thạch Lam còn phát hiện ra rằng, tuy họ nghèo đói, khổ sở, vất vả là thế nhưng họ vẫn luôn có lòng trắc ẩn, lòng thương người, thương những con người cùng số phận với mình. Đó là khi Liên nhìn thấy những đứa trẻ nghèo nhặt rác ở khu chợ tàn, chị đã động lòng thương chúng, thương cho số phận của chúng, thương cho tuổi thơ bị chôn vùi trong sự đói nghèo mà đáng ra phải được sống vui tươi hơn của chúng. Mặc dù rằng tình thương ấy của chị cũng chỉ là một niềm thương cảm, bởi chính chị cũng đang rơi vào hoàn cảnh nghèo đói như chúng, chị cũng bất lực trước số phận “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Thạch Lam vẫn thế, ông vẫn rất tinh tế khi phát hiện được những gì nhỏ nhặt nhất trong từng câu chuyện đời thường, để phát hiện ra một niềm thương cảm nhỏ nhoi của Liên dành cho lũ trẻ. Như ở Liên, cuộc sống của chị cũng chẳng hơn gì những đứa trẻ kia, đáng ra, chị phải thương chính bản thân mình trước, nhưng chị vẫn thương, vẫn động lòng trắc ẩn trước những số phận giống mình. Đó là tấm lòng nhân đạo đáng quý của Liên hay cũng của chính Thạch Lam khi ông đã không chỉ phát hiện ra sự tần tảo sớm hôm của người lao động mà còn phát hiện ra tấm lòng cao quý, trắc ẩn của họ dành cho những số phận kém may mắn như mình.

Và hơn thế, giá trị nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ còn được thể hiện ở chỗ Thạch Lam trân trọng vô cùng những ước mơ bé nhỏ, giản dị của những con người nơi đây về một tương lai tươi sáng hơn.

Tác giả trân trọng những hoài niệm của chị em Liên khi hai chị em hồi tưởng về cuộc sống ở phố thị trước kia “khi ở Hà Nội chị được thưởng thức những thức quà ngon, lạ – bấy giờ mẹ Liên còn nhiều tiền – được đi chơi bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hoài niệm ấy của Liên là sự khao khát được trở lại những ngày tháng còn sung túc, bởi “kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh”. Những hoài niệm ấy là một vùng kí ức, giờ đây trở thành khát vọng mà hai chị em Liên mong mỏi được trở về, nó thật tươi sáng và đẹp đẽ biết mấy. Thạch Lam trân trọng vô cùng cái mơ ước nhỏ bé ấy của hai chị em Liên, bởi ông hiểu, cái mơ ước ấy giờ đây quá xa vời, nhưng những niềm hi vọng thì không bao giờ lụi tàn cả.

Cái thế giới mà họ mơ tưởng đến nơi sáng rực ánh đèn và tiếng còi vang vọng, Thạch Lam trân trọng niềm khao khát về một thế giới khác, không còn u tối của những con người nơi đây. Và niềm khao khát ấy trở thành hiện thực khi chuyến tàu đêm cuối cùng băng qua con phố huyện nghèo đói, tối tăm này. Thạch Lam đã miêu tả đoàn tàu qua với tất cả sự trân trọng, tự hào, với những hình ảnh rực rỡ nhất “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu chỉ vụt qua trong giây lát, thế nhưng nó lại để lại một thế giới mới, đầy ánh sáng và âm thanh rực rỡ, chói lọi, một thế giới khác lạ, tốt đẹp hơn. Thế giới ấy “khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”, âm thanh chan hòa, vang vọng khác với “tiếng trống thu không” đơn điệu, đều đều, đó là thế giới “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”, nơi mà Thạch Lam muốn con người nơi đây hướng tới.

Câu chuyện khép lại, thế nhưng, đó đây, người ta vẫn cảm thấy nao lòng trước cuộc sống quá đỗi tăm tối, tù túng và vô ý nghĩa của con người lao động nơi phố huyện này. Vậy nên, chắc hẳn, miêu tả phố huyện nghèo điển hình thời Pháp thuộc cùng với những kiếp người tàn, Thạch Lam đã kín đáo lên án cái xã hội thực dân ấy đã không đảm bảo được quyền sống cho con người, bào mòn những kiếp người trong đói nghèo và u tối.

Hai đứa trẻ đã làm nổi bật lên giá trị nhân đạo sâu sắc mà Thạch Lam muốn gửi gắm. Đó không chỉ là tình cảm thương xót dành cho những số phận nghèo đói, cho những kiếp đời tàn mà còn là sự trân trọng những phẩm chất cao đẹp, những ước mơ nhỏ nhoi của họ về một tương lai khác tươi đẹp hơn ở phía trước.

Giá trị nhân đạo là một trong những phần quan trọng nhất làm nên một tác phẩm hay. Có lẽ bởi thế, Hai đứa trẻ đã trở thành một tác phẩm thành công bậc nhất trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Nó không chỉ minh chứng cho tài năng miêu tả nội tâm bậc thầy của Thạch Lam, phô bày xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc mà còn bộc lộ những tình cảm trân trọng, yêu mến ông dành cho con người lao động.

Top 5 mẫu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất 6
Giá trị nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ

4. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” – mẫu 4

Thạch Lam là một trong những cây bút chủ lực của nhóm “Tự lực văn đoàn”. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, phê bình. Nhưng lĩnh vực thành công nhất của ông là truyện ngắn.Trong những truyện ngắn có khuynh hướng hiện thực cuộc sống của Thạch Lam có thể nói “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm thành công tiêu biểu.Truyện không có những tình tiết hấp dẫn, li kì, gay cấn chỉ xoay quanh sinh hoạt của người dân ở một phố huyện nghèo trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng qua đó Thạch Lam đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc.

Đọc “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy bao trùm lấy câu chuyện là cuộc sống xơ xác, tiêu điều của một phố huyện nghèo. Cuộc sống đó đã được tác giả miêu tả ở một thời điểm hết sức tiêu biểu-thời điểm ngày lụi tàn: “Trống thu không từng tiếng một vang lên”, “phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “những đám mây ánh hồng như những hòn than sắp tàn”, “ngoài ruộng tiếng ếch nhái kêu rang vọng vào phố chợ..”. Một khoảng không gian mênh mông của đồng ruộng vừa đẹp lại vừa buồn gợi ra trước mắt người đọc.

Trên nền của bức tranh ấy, cuộc sống của người những người dân phố huyện được Thạch Lam miêu tả hết sức đặc sắc: Khi trời nhá nhem tối, mẹ con chị Tí bày cái hàng nước ra dưới gốc cây bàng. Liên dọn dẹp cửa hiệu tạp hóa rồi cộng sổ tính tiền. Bà cụ Thi đến cửa hàng Liên mua một cút rượu, ngửa cổ uống sạch rồi biến đi lẫn vào trong bóng tối với tiếng cười khanh khách. Đám trẻ con tụ họp chơi đùa trên các thềm nhà. Bác Siêu dọn gánh hàng phở ra bên bếp lửa bập bùng. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, trước cái thau trắng chờ có khách để hát kiếm tiền.

Qua ngòi bút chấm phá tinh tế của Thạch Lam chúng ta thấy cuộc sống ở phố huyện nghèo ấy hiện ra như một thế giới đang hấp hối, tàn lụi.

Trong bối cảnh ấy, hai chị em Liên và An cũng như những người dân phố huyện vừa náo nức vừa khắc khoải, mòn mỏi chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về đi ngang qua phố huyện. Đêm nào cũng vậy, khi trời vừa bắt đầu tối thì hai chị em đã thấp thỏm chờ đợi chuyến tàu. Rồi chuyến tàu đến như hằng đêm nó vẫn thường đến với sức hấp dẫn kì lạ đối với hai chị em Liên-An cũng như người dân nghèo của phố huyện.

Tàu đến với tiếng còi và tiếng rầm rộ của bánh xe. Liên dắt em đứng lên để nhìn chuyến tàu vụt qua, chuyến tàu đầy sức hấp dẫn bởi nó tràn ngập ánh sáng. Ở những toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường. Những toa thuộc hạng sang trọng lố nhố người; đồng và kềnh lấp lánh. Cái nguồn sáng ấy vụt qua, biến vào đêm tối để lại những đóm thần nhỏ bay tung tóe trên mặt đường…

Chuyến tàu đêm ấy đã khơi gợi lên trong hồn Liên bao biến động. Đó là hoài niệm về Hà Nội thuở xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Đối với Liên, con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Thế giới ấy khác hẳn với thế giới mà Liên đang sống, khác hẳn với vầng sáng nhỏ nhoi của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bập bùng trong gánh hàng của bác Siêu…

Nhìn lại toàn bộ câu chuyện, người đọc không khỏi thắc mắc vì sao hằng đêm chị em Liên-An cứ mòn mỏi đợi chuyến tàu đi ngang qua phố huyện? Vì sao hình ảnh con tàu tràn ngập ánh sáng lại dấy lên trong tâm hồn Liên bao biến động? Bởi vì trong cuộc sống thường ngày ở phố huyện xơ xác, tiêu điều ấy, họ không thể tìm đâu ra niềm vui. Cuộc sống diễn ra chung quanh họ hết sức đơn điệu, nhạt nhẽo, vô vị…Chuyến tàu sáng rực đối với người dân phố huyện là hình ảnh của một thế giới khác hẳn, đối lập hoàn toàn với cái thế giới mà Liên và An đang sống- đó là thế giới của văn minh, niềm vui và hạnh phúc.

Từ đó mà ta cũng nắm bắt được vấn đề sâu sắc mà Thạch Lam gửi gắm vào truyện: Đó là khát vọng vươn ra thế giới văn minh, hạnh phúc của những con người nhỏ bé-giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Bên cạnh giá trị về mặt chủ đề, “Hai đứa trẻ” còn nổi bật lên những đặc sắc về nghệ thuật, thể hiện tập trung qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam trong việc tả người, tả cảnh cũng như miêu tả tâm trạng của con người. Gắn liền với nghệ thuật miêu tả là thủ pháp đối lập đã được nhà văn sử dụng hết sức thành công trong truyện. Trước hết là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa tĩnh và động. Thủ pháp đối lập này đã góp phần đắc lực cho Thạch Lam trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc và rất tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Qua tác phẩm chúng ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo của Thạch Lam đối với con người và nhất là những con người nhỏ bé trong xã hội. Chuyện đượm buồn nhưng đó là nỗi buồn cần thiết bởi nó có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.

5. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” – mẫu 5

Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 -1945. Những truyện ngắn của Thạch Lam được đánh giá như những bài thơ trữ tình đượm buồn vì vừa đậm chất trữ tình vừa thể hiện cảm quan hiện thực sâu sắc.- Hai đứa trẻ (in trong tập Nắng trong vườn) là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, vừa tiêu biểu cho bút pháp của nhà văn, vừa thể hiện giá trị tư tưởng sâu sắc và mới mẻ.

Giá trị nhân đạo: là một trong những phương diện quan trọng tạo nên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn trước hiện thực cuộc sống (sự thấu hiểu, cảm thương, trân trọng, bất bình… ). Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của mình từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo.

Tác phẩm đưa người đọc vào một bức tranh liên hoàn (từ buổi chiều hoàng hôn chạng vạng đến đêm khuya) nhằm khắc họa cuộc sống buồn tẻ, tù đọng nơi phố huyện nghèo. Nơi ấy, hiện dần lên những hoạt động âm thầm, lặng lẽ của những kiếp người nhỏ bé, sống cuộc sống mờ mờ nhân ảnh. Đó là cảnh phiên chợ chiều đã vãn nghèo nàn, tiêu điều cùng hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh. Đó là mẹ con chị Tí bán hàng nước, cứ bày ra rồi lại thu vào vì vắng khách. Đó gánh phở của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này, đang ế khách. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang bò lê nghịch những rác bẩn ven đường …

Nổi bật lên trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với tâm trạng đợi tàu. Ngày này qua ngày khác, cuộc sống của chị em Liên trôi qua trong tẻ nhạt ở cửa hàng tạp hóa với những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi… Bởi thế, việc đợi một chuyến tàu đêm – hoạt động khá nổi bật nơi này, dường như đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, thành một biểu tượng cho những mong mỏi tội nghiệp được thay đổi cuộc sống (cảnh đợi tàu của chị em cô bé Liên được miêu tả khá tỉ mỉ: từ sự ngóng đợi, tâm trạng háo hức khi đoàn tàu đến, nỗi tiếc nuối, dòng mơ tưởng về một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo khi đoàn tàu đi qua…)

Thạch Lam thể hiện tấm lòng cảm thông, xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé, vô danh ở phố huyện nghèo, nói rộng hơn là của những con người nhỏ bé sống trong xã hội cũ; trân trọng trước những ước mơ, khát vọng muốn được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng như chưa bao giờ được biết đến niềm vui, ánh sáng và hạnh phúc.

Hai đứa trẻ thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc ấy, tác phẩm không chỉ thể hiện mối quan tâm sâu sắc của nhà văn trước những mảnh đời nhỏ bé mà còn có tác dụng tích cực, góp phần làm lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn.

Tài liệu trên đây do HocThatGioi chọn lọc và tuyển chọn , là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích giúp học sinh có thể nắm vững kiến thức quan trọng của tác phẩm. Nếu thấy hay hãy chia sẻ cho bạn bè cũng tham khảo nhé!. Chúc các bạn học tốt!

Bài viết khác liên quan đến Lớp 11 – Ngữ Văn – Hai đứa trẻ
Back to top button
Close