Ngữ Văn 12

Soạn bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chi tiết nhất

Người lái đò sông Đà là một tác phẩm rất thành công của Nguyên Tuân, tác phẩm sẽ giúp các bạn học sinh cảm nhận được nét văn uyên bác của Nguyễn Tuân; cảm nhận sự hùng vĩ và nên thơ của núi non Tây Bắc qua hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình, vừa hung bạo; cảm nhận hình ảnh dung dị mà kỳ vĩ của người lái đò trên sông nước. Hôm nay HocThatGioi sẽ gửi đến các bạn bài viết Soạn bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chi tiết nhất để bạn đọc có thể phần nào nắm được những nội dung xoay quanh tác giả và tác phẩm này nhé!

Soạn bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chi tiết nhất
Soạn bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chi tiết nhất

Tác giả Nguyễn Tuân

Chúng ta sẽ đi tìm hiểu đôi nét về tác giả, các tác phẩm tiêu biểu cũng như phong cách nghệ thuật của ông

Đôi nét về tác giả

  • Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho. Quê ông ở làng Mọc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
  • Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường về tùy bút, bút kí với một phong cách tài hoa và độc đáo. Đặc biệt, ông được xem là bậc thầy trong việc làm phong phú thêm ngôn ngữ văn hóa dân tộc.
  • Nguyễn Tuân từng làm Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam từ năm 1948 đến năm 1958. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Các tác phẩm tiêu biểu

Các tác phẩm tiêu biểu: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương(1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972).

Phong cách nghệ thuật

  • Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách sáng tác của ông gói gọn trọng một chữ ngông. Ngông dựa trên sự tài hoa uyên bác và nhân cách hơn người.
  • Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã có nhiều chuyển biến quan trọng, không còn cái ngông nghênh, khinh bạc. Ông tìm thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa quá khứ – hiện tại – tương lai, giọng văn trở nên tin yêu, đôn hậu, tìm thấy cái đẹp, chất tài hoa ở những con người lao động bình thường, giọng văn khinh bạc chủ yếu để ném vào kẻ thù dân tộc hay những mặt trái của xã hội.

=> Với phong cách rất riêng của mình, có thể nói Nguyễn Tuân chính là hiện thân của cái định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương nghệ thuật phải có phong cách độc đáo, mới lạ.

Tác phẩm Người lái đò sông Đà

Lần lượt tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời, bố cục, tóm tắt và ý nghĩa nhan đề của tác phẩm

Hoàn cành ra đời

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt là chuyến đi thực tế vào năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận.

Bố cục tác phẩm

Gồm 3 phần:

  • Phần 1 (Từ đầu đến “gậy đánh phèn.”): Miêu tả sự dữ dội, hung bạo của con sông Đà.
  • Phần 2 (Tiếp đó đến “dòng nước sông Đà.”): Nói về cuộc sống con người trên sông Đà và hình ảnh người lái đò trên sông Đà.
  • Phần 3 (Còn lại): Vẻ hiền hòa, trữ tình của con sông Đà.

Tóm tắt tác phẩm

Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Tuân, con sông Đà ở vùng Tây Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hung bạo, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình. Từ thượng nguồn sông Đà đã mang vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời; sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang như sôi lên sùng sục, tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa. Sông Đà mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình nhất là nhìn từ xa dòng sông tuôn như một áng tóc trữ tình, trong năm, sông Đà có nhiều sự thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại có những vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo. Dọc hai bên bờ sông Đà có những bãi cỏ xanh non với những đàn hươu non đang gặm cỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, Sông Đà là chuyến đường thủy để các cô lái đò Quỳnh Nhai vận chuyển lương thực cho kháng chiến. Sông Đà hiện lên thật hung tợn và dữ dội nhưng thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Trên nền thiên nhiên rộng lớn hình tượng người lái đò người dân lao động đặc điểm thân hình cao to, nước da rám nắng, thông thạo trong nghề nghiệp của mình. Ông nắm chắc các qui luật dòng thác, từng vách đá, luồng nước, cửa sinh, cửa tử. Người lái đò sông Đà trước tiên cần sự kinh nghiệm trong nghề nghiệp và sự dũng cảm, gan dạ, những người lái đò là những con người tài hoa, khiêm tốn trong cuộc sống, họ giúp những con thuyền vượt qua khó khăn từ thiên nhiên và về bến an toàn.

Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác phẩm đó là ông lái đò – một người lao động tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa.Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm: con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng. Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê hương đất nước.

Đọc, hiểu văn bản Người lái đò sông Đà

Hình tượng con sông Đà

a. Vẻ đẹp hung bạo

  • Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá mà còn có “đá bờ sông, dựng vách thành”, có “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.
  • Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
  • Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.
  • Thác nước sông Đà: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”
  • Thạch trận sông Đà: đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”… Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận.

=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.

b. Vẻ đẹp trữ tình

Khi từ tàu bay nhìn xuống:

  • “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
  • Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

  • Niềm vui khi bắt gặp dòng sông: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
  • Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

  • Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
  • Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

=> Sông Đà mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.

Hình tượng người lái đò sông Đà

a. Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động

  • Ngoại hình: Tuổi ngoài bảy mươi nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường.
  • Nghề nghiệp: Làm nghề lái đò trên sông Đà đã nhiều năm: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…”. Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần… Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

b. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

  • Trùng vây thứ nhất: Ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.
  • Trùng vây thứ hai: Ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.
  • Trùng vây thứ ba: Ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

=> Ông lái đò chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của vùng cao Tây Bắc.

=> Xem thêm Sơ đồ tư duy Người lái đò sông Đà chi tiết nhất

Trả lời câu hỏi sách giáo khoa bài Người lái đò sông Đà

Câu 1. Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.

  • Trước hết, Người lái đò sông Đà là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.
  • Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông hiện lên với vẻ đẹp hung bạo và trữ tình, người lái đò vừa tài hoa lại vừa bình dị. Dù là hình ảnh con sông hay người lái đò, Nguyễn Tuân đều khắc họa sinh động, tỉ mỉ dưới nhiều góc độ khác nhau.

=> Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà

Câu 2. Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo.

  • Hình ảnh so sánh, so sánh kết hợp với nhân hóa:
    1. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
    2. Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
    3. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
    4. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
    5. “Thế rồi nó rống lên… ”, so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
  • Sử dụng cấu trúc trùng điệp: Ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…” .
  • Sử dụng từ ngữ phong phú thuộc nhiều ngành nghề khác nhau: thể thao: tiền vệ, tuyến giữa…, quân sự: thạch trận, đánh giáp lá cà…

Câu 3. Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình.

Khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình, cách viết của nhà văn trở nên uyển chuyển hơn, tinh tế hơn. Nguyễn Tuân đã khắc họa con sông trữ tình dưới nhiều điểm nhìn khác nhau:

  • Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
  • Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
  • Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Câu 4. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

  • Trùng vây thứ nhất: Ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.
  • Trùng vây thứ hai: Ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.
  • Trùng vây thứ ba: Ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

=> Ông lái đò chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của vùng cao Tây Bắc.

Câu 5. Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

  • “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”: Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
  • “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”: Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
  • “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”: Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.
  • Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”: Con sông giống như người thiếu nữ dịu dàng, đẹp đẽ.
  • “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”: So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết của HocThatGioi về Soạn bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân chi tiết nhất. Nếu thấy bài viết hay, bổ ích hãy chia sẻ ngay cho bạn bè của mình để cùng nhau học giỏi nhé! Chúc các bạn học tốt!

Bài viết khác liên quan đến Lớp 12 – Ngữ Văn – Người lái đò sông Đà
Back to top button
Close