Ngữ Văn 12

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Vội vàng hay nhất

Trong bài viết này HocThatGioi sẽ giúp các bạn triển khai dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng chi tiết nhất. Sau bài viết này các bạn nắm được những ý chính và cách triển khai các luận điểm nhằm hoàn thiện bài viết một cách hoàn chỉnh nhất. Mời các bạn cùng theo dõi!

dàn ý bài vội vàng
Dàn ý Vội vàng

Hãy cùng theo dõi 3 mẫu dàn ý dưới đây

Dàn ý bài thơ Vội vàng- Mẫu 1

I. Mở bài

  • Rút trong tập Thơ thơ, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
  • Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.

II. Thân bài

* Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ

  • Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.
  • Thời gian và mùa xuân
  • Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Xuân Diệu viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như Xuân Diệu.
  • Đối với Xuân Diệu, mỗi khắc thời gian trôi qua chính là niềm lo sợ, canh cánh trong lòng.
  • Tác giả sử dụng cú pháp đối lập để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già.

=> Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người: Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

  • Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn, và khi xuân không còn thì đời người cũng hết.
  • Cảm nhận về sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu khái quát thành một triết lí nhân sinh.

=>Chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận về thời gian một cách cao sâu như vậy.

=> Hẳn là trong Xuân Diệu đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân của mình. Có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của sống.

  • Thời gian và tuổi trẻ
  • Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, của tác giả.
  • Thời gian làm mùa xuân trôi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình.
  • Tâm trạng lo lắng đó đã được tác giả bộc bạch trong những câu thơ đầy triết lí:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại!

  • Câu thơ tưởng chừng là lời than vãn nhưng hiện lên trong đó là một quan niệm sâu sắc: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, và khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn và nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất.
  • Với Xuân Diệu, tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, đó là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Chính vì vậy tuổi trẻ trôi qua là điều nhà thơ lo lắng nhất và tiếc nuối nhất: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

=> Cảm nhận về thời gian của tác giả làm hiện lên niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.

* Cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và sự sống trong bài thơ

  • Nhà thơ giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.
  • Bức tranh thiên nhiên có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ, tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất.
  • Tuần tháng mật của ong bướm
  • Hoa của đồng nội xanh rì
  • Lá của cành tơ phơ phất
  • Khúc tình si của yến anh
  • Hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời…

=>Tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.

  • Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất.
  • Điệp khúc này đây cùng với các liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dùng từ láy, từ ghép và những cụm từ tuần tháng mật, khúc tình si hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có nhịp thơ gấp gáp, vừa có gì như là sự hối thúc, giục giã, khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng.
  • Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng. Đó là lời tác giả muốn nhấn mạnh khi khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ.
  • Nhà thơ như say khi thốt lên: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
  • Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và lối diễn độc đáo mới lạ.
  • Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn…
  • Xuân Diệu đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng cặp môi gần, truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ ngon, gần.

=>Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.

* Quan niệm sống mới mẻ

  • Yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng.
  • Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người.

=>Đó là quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

* Đặc sắc nghệ thuật

  • Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.
  • Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
  • Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.

III. Kết bài

  • Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ
  • Nêu cảm nhận của em về bài thơ

Dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng- Mẫu 2

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Xuân Diệu
  • Giới thiệu chung về bài thơ Vội vàng

II. Thân bài

a. 13 câu đầu – Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

* Nghệ thuật:

  • Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết

=> Tác dụng: Nhấn mạnh khao khát chảy bỏng, tha thiết, được “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ màu cho cuộc sống, giữ hương cho đời, lưu giữ mãi khoảnh khắc đẹp nhất của thiên nhiên hiện tại.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

* Nghệ thuật: điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của”, liệt kê

=> Phơi bày ra vẻ đẹp không kể hết, không tả xiết của cõi trần gian. Nhà thơ căng mở các giác quan để đón nhận vẻ đẹp trần thế. Đây cũng chính là tiêu chí của nhà thơ Xuân Diệu được lặp lại trong rất nhiều bài thơ khác:

“Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn

Sống toàn than và thức nhọn giác quan”

=> Xuân Diệu đã cảm nhận đầy đủ hương vị và thanh sắc của cuộc đời

* Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế:

  • “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”: vị ngọt
  • “Này đây hoa của đồng nội xanh rì”: hương thơm, màu sắc
  • “Này đây lá của cành tơ phơ phất”: dáng hình uyển chuyển
  • “Của yến anh này đây khúc tình si”: âm thanh
  • “Này đây ánh sáng chớp hang mi”: ánh sáng của bình minh xuân.

=> Tất cả những vẻ đẹp mỗi ngày như một bữa tiệc đầy đủ, thịnh soạn, bày ra gõ cửa mang niềm vui đến từng nhà.

=> Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quang chúng ta đẹp vô cùng. Vẻ đẹp không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần thế, xung quanh mình

* Vẻ đẹp của mùa xuân tình yêu:

  • Khu vườn xuân đã biến thành khu vườn yêu, sự vật có đôi, có cặp. Từ thi nhân trước khu vườn mùa xuân tình thế thành tình nhân trong khu vườn tình yêu.
  • Xuân Diệu khái quát lại: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
  • “Tháng giêng” là tháng đầu tiên của mùa xuân, căng mọng đẹp tươi nhất
  • “Cặp môi gần”: căng mọng, tươi đẹp nhất của tuổi trẻ.
  • “Ngon”: nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Tháng giêng chỉ năm tháng, trừu tượng => môi gần: hữu hình, cụ thể

=> Có thể cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân rõ nét, cụ thể hơn

  • Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ, tiến bộ: Trong văn học xưa, coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì trong thơ Xuân Diệu, con người là chuẩn mực của cái đẹp, tôn vinh vẻ đẹp của con người.
  • Xuân Diệu luôn mang nỗi ám ảnh bởi thời gian, lo sợ thời gian chảy trôi mình sẽ không đón nhận được, tận hưởng từng giây từng phút vẻ đẹp của cuộc sống.

* Suy tư của Xuân Diệu: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa”.

=> Dấu chấm ngách đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu, chuyển từ cảm giác sung sướng sang hoài niệm.Tiếc xuân ngay cả trong lúc xuân đang đẹp nhất, mới có ý thức đón nhận, cảm nhận, căng mở tất cả các giác quan để đón nhận tất cả vẻ đẹp của cuộc đời.

b. 16 câu tiếp: Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu

* 2 câu thơ đầu:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”

=>Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại

* Nghệ thuật:

  • Cách ngắt nhịp tuần tự trong cả hai câu thơ ¾, diễn tả bước đi của thời gian
  • Điệp cấu trúc: điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa.
  • Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.

=> Tác giả muốn nhấn mạnh quy luật bước đi, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không trở lại.

* 7 câu thơ tiếp theo

“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”

  • Mùa xuân đi qua mang theo tuổi thanh xuân của con người, quy luật mang tính tác động tiêu cực.

*Nghệ thuật: Dựng lên những cặp đối lập:

  • Rộng >< chật
  • Xuân tuần hoàn >< tuổi trẻ
  • Còn trời đất >< chẳng còn tôi mãi

=> Sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn.

  • “Lượng trời chật”: Chật khi lấy đi tuổi trẻ, tuổi xuân của mỗi ngừoi
  • “Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian/ tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.

=> Tuổi trẻ là thời đẹp đẽ của mỗi người.

=> Cảm xúc của nhà thơ: bâng khuâng, tiếc nuối

* 7 câu thơ cuối:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”

  • Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm nhận bằng giác quan khứu giác “mùi”, vị giác “chia phôi”, thị giác “rớm”, hữu hình hóa tháng năm vốn trừu tượng.
  • Những câu thơ sau là sự giải thích: Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt; Con gió xinh thì thào trong lá biếc; Chim rộn rang bỗng đứt tiếng reo thi.

=> Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

=> Cảm xúc nuối tiếc, nền tảng khơi dậy những khao khát cháy bỏng ở đoạn sau

c. 10 câu thơ cuối: Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời

  • Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tuổi trẻ là gian đoạn đẹp nhất của đời người.

* Nghệ thuật:

  • Thay đổi cách xưng hô: “tôi” sang “ta”
  • Dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.

=> Muốn tận hưởng bằng tất cả các giác quan. Vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, đầy ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, cuộc đời

  • Sử dụng nhiều tính từ: chếnh choáng, đã đầy, no nê

=> Diễn tả sự thỏa mãn tột cùng khi tận hưởng.

“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”

  • Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng, tác giả hình dung mùa xuân như trái chín ửng hồng, muốn “cắn” => mong muốn được hưởng thụ
  • Quan niệm sống của tác giả: Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến

III. Kết bài

  • Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ

Dàn ý phân tích bài thơ Vội vàng- Mẫu 3

I. Mở bài

  • Giới thiệu đôi nét về tác giả Xuân Diệu
  • Tác phẩm Vội vàng

II. Thân bài

a. Xuân Diệu bộc lộ tình yêu tha thiết và niềm say mê cuộc sống nơi trần thế của mình qua 13 câu thơ đầu

  • Mở đầu bài thơ tác giả đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn, ngắn gọn súc tích nhưng lại thể hiện được niềm ước muốn kì lạ, táo bạo, liều lĩnh của mình: 

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.

=>Mục đích : Giữ lại sắc màu cho đừng “nhat” phai, giữ lại mùi hương để đừng “bay đi”.

=>Tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để thiên nhiên và thời gian không thay đổi . Nhưng. thực chất, sở dĩ Xuân Diệu có khát vọng kì lạ đó bởi dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sự quyến rũ. Ông sợ thời gian sẽ chảy trôi, ông muốn níu kéo thời gian, muốn tận hưởng mãi hương vị của cuộc sống và bất tử hóa cái đẹp của mùa xuân.

* Nghệ thuật:

  • Thể thơ ngũ ngôn ngắn gọn, rõ ràng như lời khẳng định, cố nén cảm xúc và ý tưởng.
  • Điệp ngữ: “Tôi muốn” được trở đi trở lại 2 lần gợi một cái tôi cá nhân khao khát giao cảm và yêu đời đến tha thiết.

b. Câu 5 – 13: Niềm vui say, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống

“Của ong bướm này đây tuần trăng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

  • Xuân Diệu đã phát hiện được một thiên đường ngay trên mặt đất, không xa lạ mà rất đổi quen thuộc. Nó ở ngay trong tầm mắt của mỗi chúng ta. Và, khung cảnh ấy da được “ông hoàng thơ tình” cảm nhận ở thời điểm ban đầu:
  • “Buổi sớm” – khởi đầu một ngày mới.
  • “Tuần tháng mật” – khởi đầu cuộc sống lứa đôi.
  • “Tháng giêng” – khởi đầu cho một năm mới.

=>Đây chính là thời khắc đẹp đẽ, tinh khôi, và tràn đầy sự tươi mới mà mùa xuân mang lại.

  • Hình ảnh thiên nhiên và sự sống quen thuộc đã được cảm nhận qua một trái tim đa cảm của thi nhân. Sự sống và những hình ảnh ấy hiện lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ và đầy tình tứ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp kỳ diệu của chúng và thôi vào đó một tình yêu rạo rực, đắm say và ngây ngất:

“Ong bướm – tuần tháng mật“

“Hoa của đồng nội xanh rì“

“Lá của cành tơ phơ phất“

“Khúc tình si” của “yến anh“

“Ánh sáng chớp hàng mi“

=>Đây chính là những cảnh vật quen thuộc, gần gũi, mang nét đặc trưng của mùa xuân. Nhà thơ đã phát hiện một thiên nhiên diệu kỳ, mượt mà, hấp dẫn, gợi cảm như một người thiếu nữ trẻ trung, đầy sức sống.

  • Điệp ngữ “Này đây” được lặp đi, lặp lại 2 lần tạo nên sự bồ bập, reo vui trước vẻ đẹp của trần thế mà tác giả muốn tiếp xúc, muốn tận hưởng ngay. “Này đây” còn đứng đầu câu thơ để phép liệt kê trở nên gấp gáp hệt như tác giả sợ rằng mọi thứ sẽ vụt mất trước khi chúng ta kịp ngắm nhìn chúng.
  • Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên quá lăng kính của tình yêu, qua cặp mắt của tuổi trẻ tươi mới. Chính vì lẽ ấy, mà ông đã quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân: “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”. Đây là một câu thơ đọc đáo và có dáng vẻ vô cùng đặc biệt: ánh sáng chớp của đất trời chói loà đầy sức sống làm cho bờ mi phải chớp lấy do chói gắt hay là ánh sáng từ hàng mi thiếu nữ thanh xuân đang toả ra, phát ra sau hàng mi diễm lệ.
  • So sánh cuộc sống thiên nhiên như người đang yêu, như tình yêu đôi lứa đắm say, tràn trề hạnh phúc:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần“

=> Đây là một sự so sánh mới mẻ, độc đáo và táo bạo: lấy con người làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian – điều mà trong thơ cổ điển chưa có được. Đồng thời phép so sánh này còn thể hiện sự chuyển đổi cảm giác tài tình từ thị giác sang vị giác để ca ngơi vẻ đẹp tình yêu đôi lứa, hạnh phúc tuổi trẻ.

  • Câu thơ: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”
  • Đây là một dòng thơ hay và độc đáo. Nhiều người khi tiếp cận dòng thơ này đã thường bỏ qua dấm chấm câu ở giữa dòng thơ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu đã dùng đến một dấu chấm để ngắt dòng thơ của mình thành 2 câu độc lập như vậy. Đọc kĩ dòng thơ và đặt chúng trong chỉnh thể toàn bài thơ, chúng tôi nhận thấy dấu chấm có ý nghĩa tách hai nội dung tư tưởng chủ đạo của toàn bài.
  • Tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng thống nhất:  “Sung sướng >< vội vàng” khiến câu thơ như âu thơ như tách ra làm hai. Phần đừng trước thể hiện hình ảnh tươi nguyên của cuộc sống vui, háo hức. Còn phần còn lại thể hiện một niềm sung sướng không trọn vẹn bởi tác giả cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, ông muốn sống gấp, sống nhanh, sống vội để chạy đua với thời gian, để có thể tận hưởng hết sự tươi trẻ ấy.

c. Thi sĩ Xuân Diệu thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người, trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian

  • Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…

  • Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, hết – mất, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại vì vậy cần phải quý tuổi xuân.
  • Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi…
  • Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

  • Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ
  • Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

  • Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng.
  • Chợt tỉnh mùa chưa ngả chiều hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già.
  • Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. =>Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Chẳng bao giờ/ ôi/ Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi/ mùa chưa ngả chiều hôm… 

  • Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả, ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

  • Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân:

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

III. Kêt bài:

Cảm nhận của em về bài thơ Vội Vàng

Trên đây là dàn ý mẫu phân tích bài thơ Vội vàng, mong bài viết này sẽ giúp trong qua trình học tập, các bạn có thể dựa vào đây để viết một bài phân tích hoàn chỉnh. Hãy theo dõi các bài viết tiếp theo của HocThatGioi để biết được nhiều kiến thức bổ ích hơn nhé. Chúc các bạn học tốt!

Bài viết khác liên quan đến Lớp 12 – Ngữ Văn – Vội vàng
Back to top button
Close