Ngữ Văn 12

5 mẫu phân tích khổ thơ đầu bài Vội vàng cực hay

Trong bài viết này HocThatGioi đã tổng hợp và biên soạn 5 mẫu phân tích khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng hay nhất. Khổ thơ đầu bài Vội vàng, nhà thơ Xuân Diệu đã bộc lộ khát vọng muốn tắt nắng, buộc gió- khát vọng có phần phi lí lại có chút ngông cuồng này thực chất lại là biểu hiện của tình yêu tha thiết với cuộc đời. Hãy cùng tìm hiểu những bài mẫu dưới đây để hiểu thêm về bài thơ nhé!

phân tích khổ 1 vội vàng
Khổ 1 Vội vàng

Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Vội Vàng- Mẫu 1

Nhắc đến mảng thơ tình yêu ta không thể không nhắc đến ông hoàng Xuân Diệu. Trong con người ông luôn căng tràn tình yêu và sức sống mãnh liệt. Chính bầu sữa tình yêu ngọt lành ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn Xuân Diệu để rồi ông mang đến cho đời, cho người những vần thơ lai láng. “Vội Vàng” là một trong những bài thơ như thế. Trọn vẹn cảm xúc bài thơ đó là quan niệm về thời gian và tình yêu cuộc sống mãnh liệt làm nên những dư vị lắng sâu trong lòng độc giả.

Mở đầu bài thơ là những rung cảm rất đỗi chân thực:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Ánh nắng nhè nhẹ lả lơi trên ngọn cây; gió cũng thướt tha đùa vui cùng những tia nắng, cùng hương hoa đua sắc. Một vài nét điểm xuyết cho trời xuân cũng đủ để lòng người thoáng đãng, thanh khiết. Không khi mùa xuân đang lan tỏa khắp muôn nơi; gieo vào lòng người sự thư thái, nhẹ nhàng, thanh thản. Có gió có nắng trời xanh và có cả hoa thơm tươi đẹp. Trời như được đẩy lên cao hơn, xa hơn, không gian như trải ra rộng hơn. Mênh mông bao la rộng lớn bao trọn con người. Lòng người ngây ngất và đắm chìm để tận hưởng. Bầu không gian ấy khiến tâm hồn người rạo rực, đắm say để rồi vượt qua bao giới hạn con người ta cũng chẳng thể kìm lòng mà thốt lên rằng : “Tôi muốn tắt nắng đi…/ Tôi muốn buộc gió lại”

Nắng của trời, gió của trời, nắng gió là của thiên nhiên tạo hóa, cơ sao tác giả lại muốn “tắt” muốn “buộc”. Dường như mọi cảm xúc lúc này đã dâng tràn lên đến tột cùng. Tác giả như đang muốn đoạt đi quyền của trời xanh bao la, của mẹ thiên nhiên. Tác giả muốn giữ nắng giữ gió ở lại bên mình. Người sợ rằng khi mở mắt ra ánh năng chan hòa, gió trời thanh thanh sẽ cuốn về nơi xa. Điệp ngữ “Tôi muốn” được đảo lên đầu câu như nhấn mạnh, kéo dài ra da diết nỗi niềm tâm nguyện thẳm sâu ấy của tác giả. Người không còn chỉ dừng lại ở sắc thái cảm nhận du dương nữa mà đến đây, mọi cảm xúc đã vỡ òa ra, ngân lên thành tiếng nói nghẹn ngào. Đó là nỗi khát khao mãnh liệt được sống hòa mình cùng thiên nhiên thanh bình, xanh tươi, là mong ước cháy bỏng được thâu tóm những giây phút, vẻ đẹp của tạo hóa và đất trời này đây. Hồn tác giả như đang hòa vào cùng thiên nhiên, sống trọn với thiên nhiên hữu tình, thơ mộng. Thế nhưng đó vẫn là chưa đủ, tác giả mong muốn được ôm hết vẻ đẹp ấy vào lòng, uống trọn những tâm tư của khoảnh khắc diệu kì. Người mong phút giây này, thời khắc này hãy ngừng chảy trôi để bản thân được sống cho thỏa, được cảm nhận cho kì hết sắc trời, hương hoa diệu kì.

Từ cung bậc cảm nhận rồi hòa mình và cuối cùng là nỗi cháy bỏng rạo rực níu giữ lại cho cái tôi bản thân. Các động từ manh “buộc” “tắt” đã diễn tả rất thành công những xúc cảm trong lòng nhà thơ. Bao cảm xúc như đang quy tụ, kết tinh hừng hực cuộn tràn trong lồng ngực người nghệ sĩ. Nắng và gió vốn là sản phẩm tự nhiên, là những thực thể trừu tượng vô hình, khó nắm bắt nhưng người vẫn muốn, vẫn tha thiết được níu được buộc. Phải chăng với tác giả, nắng gió đâu còn vô tri đâu còn vô giác mà đong đầy linh hồn, hương sắc, mùi vị ngọt lành.

Những câu thơ đầu với giọng thơ khỏe khoắn, nhịp thơ 2/3 mạnh mẽ còn thể hiện tinh thần sảng khoái, tràn đầy năng lượng, ngập tràn niềm vui, đam mê thích thú của tác giả. Với tác giả thiên nhiên như tri âm tri kỉ, đến với thiên nhiên tác giả được sẻ chia cõi lòng mình, được sống hết cho đam mê bất tận, cho niềm vui thú mênh mang. Thiên nhiên với lòng người như quấn quýt, chan hòa, đan xen, điểm tô cho nhau.

Bằng đôi mắt “xanh non biếc rờn” cùng tình yêu tha thiết đối với cuộc đời, nhà thơ Xuân Diệu đã phát hiện được những vẻ đẹp rực rỡ, tươi sáng nhất nơi trần gian:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Có thể nói cái nhìn của Xuân Diệu rất mới mẻ và độc đáo, ông đã lấy chuẩn mực cái đẹp của con người để miêu tả cảnh sắc của thiên nhiên. Đây quả là một câu thơ đặc sắc và có giá trị nghệ thuật vô cùng to lớn. Quá sung sướng với niềm khát khao của mình, tác giả đã vội vàng chạy theo nhịp sống hối hả, ông chẳng thể chờ “nắng hạ” bởi vì tâm hồn ông lúc nào cũng như đang là mùa xuân chói sáng.

Có lẽ vì quá say mê trong niềm hạnh phúc tột cùng mà tác giả đã nảy ra trong đầu một ý nghĩ thật táo bạo “tắt nắng”,“buộc gió”, nắng và gió là những sự vật vô hình ta có thể cảm nhận bằng mắt nhưng tay ta lại chẳng thể chạm được. Nghệ thuật điệp từ “tôi muốn” kết hợp cùng các động từ mạnh đã cho người đọc thấy được niềm đam mê mãnh liệt và khát khao nắm giữ, chinh phục tạo hoá của nhà thơ. Khổ thơ ngũ ngôn mở đầu cho tác phẩm vừa cô đọng ý nghĩa nhưng cũng không kém phần cảm xúc.

Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ sắc màu được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động. Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một “thiên đường trên mặt đất”. Hình ảnh “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật đáng yêu, thật say đắm lòng người.

Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng mạng của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì” , âm thanh lôi cuốn trầm bổng như “khúc tình si”. Tình yêu lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc ngập tràn khắp mọi nơi. Điệp cấu trúc “này đây” của Xuân Diệu được sử dụng thật tài tình và đầy khéo léo như lời mời gọi, phô bày hết những tinh hoa, tuyệt mỹ của cuộc sống.

Những khi sáng sớm, “thần Vui hằng gõ cửa” ta lại chào đón một ngày mới trong niềm hân hoan, rạng rỡ. Hình ảnh so sánh đầy sáng tạo và rất gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, tháng giêng tháng của mùa xuân tràn đầy sức sống được so sánh như “một cặp môi gần”, đó là bờ môi căng mọng tuyệt đẹp của người con gái đang độ xuân thì.

Xuân Diệu đã mở ra bức tranh sự sống đầy sống động với cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh và cả những chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế bên trong vạn vật. Điệp ngữ “này đây” gợi ra được cái háo hức, rạo rực của người thi sĩ khi giới thiệu về vẻ đẹp nơi trần gian – nơi người thi sĩ đắm say với một tình yêu mãnh liệt.

Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường. Thiên nhiên, sự sống trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng tươi tắn, mời gọi như vậy. Tuy nhiên nét đặc sắc nhất trong cảm nhận của người thi sĩ phải để đến cách so sánh “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Vậy là trong cảm nhận của nhà thơ, mùa xuân cũng tươi ngon, hấp dẫn khó cưỡng như một cặp môi gần.

Lấy con người là chuẩn mực đánh giá cho những vẻ đẹp của tự nhiên không chỉ thể hiện cá tính sáng tạo của nhà thơ mà còn thể hiện quan niệm mới trong sáng tác. Nếu người xưa lấy thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người thì nay Xuân Diệu đã đi ngược lại với quan niệm bất thành văn ấy để đặt con người ở vị trí trung tâm của vũ trụ và khẳng định con người mới là chuẩn mực của mọi vẻ đẹp.

Như một thước phim sống động, khúc thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân vô cùng độc đáo và lộng lẫy: rộn rã những âm thanh tình tứ, rực rỡ ánh sáng tinh khôi, nồng nàn hương thơm sắc thắm và ngọt ngào men say ái tình. Mùa xuân có khác nào một thiên đường trên mặt đất, rạo rực sức sống, một mảnh vườn tình ái mà vạn vật đang đua nhau khoe sắc dâng hương, đắm đuối xuân tình. Như vậy, đọc những câu thơ mở đầu của “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái yêu đời đến cuồng nhiệt, cái khát sống đến bồng bột, mãnh liệt của Xuân Diệu. Quả không sai khi nói ông là nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới.

Phân tích khổ đầu bài thơ Vội vàng- Mẫu 2

Mỗi nhà thơ đến với văn đàn đều mang một dấu ấn riêng, mang một cặp mắt mới để lưu dấu trong lòng bạn đọc, nếu đôi mắt thơ của Huy Cận mang nét buồn không gian, thì đôi mắt thơ Xuân Diệu lại là cặp mắt xanh non biếc rờn để bao luyến cảnh sắc nhân gian, để đem trái tim và bầu máu nóng của mình mang đến sức sống cho nhân thế. Khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng đã mang đậm nét hồn ấy.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

         Tưởng như hồn thơ dạt dào và tươi trẻ của Xuân Diệu đã biến câu thơ thành những dòng nhựa sống chảy tràn từng câu chữ, nhưng không chỉ vậy, Xuân Diệu còn muốn đoạt quyền của tạo hóa để biến trần gian thành một bữa tiệc thắm sắc đượm hương. Ước muốn mãnh liệt này xuất phát từ cái tôi yêu trần thế nồng nàn tha thiết, muốn mang cả bầu thơ túi rượu để được nâng chén cùng thiên nhiên. Với Xuân Diệu, nếu nhân gian chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa, và những hương sắc nhạt phai thì đó không còn là thế giới mà thi nhân hằng ao ước, hằng ham muốn đem bầu máu nóng và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa.

         Nếu như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt ham muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh sắc trần gian thì đến những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa đến cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của ong bướm này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng Giêng ngon như một cặp môi hồng

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ đã hoài xuân”.

         Có thể thấy dưới “cặp mắt xanh non và biếc rờn”, vườn trần gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là sự góp nhặt của những cảnh vật đơn sơ, nhạt vị, mà mỗi ngọn cây lá cỏ, mỗi lời ca điệu hồn đều như uống phải ánh mắt si tình của thi nhân nên cũng lên hương đầy mặn nồng, biến vườn trần thành một vườn xuân. Nào là “tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si…”  tất cả đan bện, hòa quyện gắn kết để bức tranh của Xuân Diệu dậy sắc, lên hương. Bức tranh xuân vừa mang màu tươi mới, trẻ trung, lại vừa có những thanh âm đầy trong trẻo, ngọt ngào. Đặc biệt là so sánh táo bạo về tháng Giêng như một cặp môi gần là một cách tân táo bạo và đầy mới mẻ của thi nhân. Lấy cái hữu hình để so sánh với cái vô hình, lấy cái gợi về cảm giác để gợi về thời gian, nhất là lấy ái ân, tình tự để gọi về mùa xuân. Hóa ra trong mắt chàng thi sĩ bao luyến nhân gian bằng tình yêu ấy, tất cả cảnh vật nơi nơi đều là tình yêu, đều là những gì yêu kiều duyên dáng, đều mang mật ngọt của tình tự. Có một điều làm nên nét riêng này ở Xuân Diệu đó là, trước Xuân Diệu các nhà thơ thường chỉ thấy cuộc đời này mang đầy tính chất buồn thảm thê lương. Bà Huyện Thanh Quan ví nó như “cuộc hí trường” biết mấy đau thương, còn Nguyễn Du gọi nó là những “cuộc bể dâu”. Gần Xuân Diệu hơn, Thế Lữ chán ghét thực tại tầm thường mà tìm về với chốn thiên thai hạ giới, để say sưa trong lời ca điệu nhạc, trong chốn bồng lai. Nhưng Xuân Diệu ở ngay trong đoạn thơ này, với những dòng cảm xúc nóng hổi bao luyến nhân gian, rồi phác họa chúng lên tràng viết, đã cho ta thấy cuộc đời vẫn lộng lẫy, tươi vui, và đáng sống, và nó như một bữa tiệc trần gian để con người say sưa trong men say của tình tự. Cho nên Hoài Thanh với đánh giá rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”.

        Xuân Diệu tưởng như chỉ là một chàng thi sĩ nhạy cảm tinh tế, đem theo hồn thơ của mình để mang phấn thông của tình yêu đến muôn nơi, để cùng nhau say sưa trong bầu thơ của thi nhân, để con người nhận ra rằng cuộc đời này đáng sống, hãy biết cách trân trọng cuộc sống trần thế.

Phân tích khổ đầu bài thơ Vội vàng- Mẫu 3

Trong phong trào thơ mới, ngoài cái kỳ dị bí ẩn nhiều đau thương của Hàn Mặc Tử, sự quê mùa chân chất của Nguyễn Bính, nỗi buồn mênh mang, ảm đạm của Huy Cận thì Xuân Diệu đã nổi lên như một hiện tượng độc đáo, đầy mới lạ và nhiều sức hấp dẫn. Ông đã mang đến cho cả thi đàn một luồng gió mới, trẻ trung, yêu đời, nồng nhiệt và đắm say, như một kẻ si tình đang vội vã khỏa lấp đi những nỗi trống rỗng, thiếu vắng trong lòng, một kẻ “tham lam” tận hưởng những màu sắc, hương vị bình thường giữa cuộc đời. Đọc thơ Xuân Diệu người nào chê thì phê phán đến bỏ, người đã thích thì ca ngợi hết lời, và những người thích thú ấy lại đa số là những người trẻ, dạt dào sức sống. Vội vàng là một trong những tứ thơ nổi bật và xuất sắc nhất của Xuân Diệu khi thể hiện được hầu hết phong cách sáng tác cũng như những quan niệm sống, những triết lý nhân sinh sâu sắc của tác giả. Đặc biệt là khổ thơ đầu của bài thơ:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Trong bốn câu thơ đầu tiên Xuân Diệu đã bộc lộ cái tôi cá nhân của mình một cách rõ rệt và đặc sắc bởi những ước muốn kỳ lạ có phần hoang đường và nông nổi khi tác giả muốn “tắt nắng”, “buộc gió” những sự việc tưởng chừng như xa vời và không thể xảy ra. Đằng sau suy nghĩ táo bạo ấy là một tình yêu tha thiết với cuộc đời, vì yêu nên người thi sĩ luyến tiếc tất cả vẻ đẹp bình dị đang diễn ra ở cuộc đời này. Đối với Xuân Diệu màu nắng chói chang của mùa hạ hay nhàn nhạt của mùa thu đều thực đẹp và thực quý giá, mà bản thân Xuân Diệu muốn thứ nắng ấm áp ấy mãi được tồn tại để chiêm ngưỡng, tận hưởng. 

Nhà thơ muốn “buộc gió” là bởi vào mùa xuân trăm hoa đua nở, hương sắc ngào ngạt, buộc gió để hương thơm của hoa lá, cây cỏ không bị phai nhạt, hư vô trong không gian. Có thể nói rằng cái tôi của Xuân Diệu được thể hiện một cách vô cùng độc đáo vừa ngây thơ, khát khao sở hữu như một đứa trẻ hồn nhiên lại cũng vừa táo bạo, mạnh mẽ khi muốn thay đổi cả tạo hóa. Tất cả những điều ấy đều thể hiện tấm lòng yêu tha thiết của Xuân Diệu đối với cuộc sống, với thiên nhiên mùa xuân, mà sâu xa là sự tiếc nuối, sợ hãi bản thân không so kịp với bước chân của tạo hóa, không thể tận hứng mà tận hưởng hết tất thảy những điều bình dị trong cuộc đời vốn còn nhiều tươi đẹp này.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Chính từ nhận thức mới mẻ rằng vẻ đẹp thực sự chính là xuất phát từ những điều bình dị, giản đơn xung quanh cuộc sống thường ngày chứ không phải ở một chốn bồng lai tiên cảnh nào xa xôi. Xuân Diệu đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân thực sinh động và hấp dẫn, bộc lộ rõ tình cảm nồng nàn, đắm say của ông đối với mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình bởi từng vần thơ của ông dù vui hay buồn vẫn luôn rất tình tứ, lãng mạn. Ở Vội vàng cũng thế,  trong lúc sôi nổi, đắm say và nhiệt huyết nhất khi nhìn về cảnh sắc mùa xuân, ánh mắt của người nghệ sĩ cũng tràn ngập tình yêu, niềm hạnh phúc đã đầy. Điều đó thể hiện rõ trong từng câu thơ khi ở bức tranh thiên nhiên hầu như mọi cảnh vật đều có đôi có cặp, lãng mạn và tình tứ, ong bướm thì ngọt ngào đắm say tuần tháng mật. Hoa trong đồng nội xanh rì thực hòa hợp viên mãn, lá với cành tơ cũng lả lướt đón đưa, và khúc tình si của cặp yến oanh lại càng làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần rộn rã tươi đẹp. 

Đặc biệt ở câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” lại càng làm cho bức tranh mùa xuân thêm phần lãng mạn, trong trẻo và ấm áp tình người. Hình ảnh hàng mi ánh lên màu nắng sớm là một hình ảnh đẹp và lãng mạn, khi Xuân Diệu đã khéo léo để con người xuất hiện và hòa nhập với thiên nhiên, yêu thiên nhiên một cách rất đỗi dịu dàng, đó có thể là một nàng thơ trẻ tuổi dạo bước trong khu vườn, cả người phủ một màu nắng nhàn nhạt, mà hàng mi cong vút lại bắt mắt hơn cả. Đó cũng có thể là bóng dáng người nghệ sĩ đang bận tận hưởng mùa xuân, trong cảm giác mơ màng, đôi mắt khép hờ hững khiến nắng ánh lên hàng mi. Chung quy lại dù hiểu theo cách nào Xuân Diệu cũng đã rất thành công khi đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên thực hài hòa, tràn đầy sức sống, cả sức sống của thiên nhiên lẫn sức sống của con người. Càng bộc lộ được tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. 

Đến câu thơ cuối cùng triết lý nhân sinh sâu sắc của Xuân Diệu được bộc lộ một các tinh tế rằng “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”, như vậy đối với tác giả một ngày được sống, được tỉnh giấc chính là một niềm vui lớn, tựa như thần, như thánh ngự trước cửa. Và Xuân Diệu, bản thân ông chỉ mong mỗi ngày được sống hạnh phúc, được tận hưởng cuộc sống bình dị êm đềm, được sống giữa thiên nhiên xuân sắc, đó đã là điều hạnh phúc quá đỗi lớn lao, chứ chẳng mong cầu tìm bình yên, vui sướng giữa chốn bồng lai tiên cảnh, xa rời nhân thế. Từ đó cũng thấy được quan niệm sống thực tế, đơn giản, không mưu cầu những thứ cao xa, ngoài tầm với, mà trái lại Xuân Diệu hết sức trân trọng cuộc sống trước mắt, trân trọng từng giây phút tuổi trẻ giây phút được sống trên trần gian. 

Câu thơ “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị, xưa nay người ta vẫn tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên bằng thính giác, xúc giác, thị giác, thì đến Xuân Diệu ông còn tận hưởng mùa xuân bằng cả vị giác. Vì quá đỗi yêu thích, quá đỗi khao khát vẻ đẹp của mùa xuân mà ông vừa thấy nó ngon ngọt, vừa muốn được tận hưởng được “hôn” vào mùa xuân. Đang trên đà cảm xúc thăng hoa tột bậc của sự sung sướng hạnh phúc, bỗng nhiên tâm trạng của thi sĩ chùng lại:

 “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

 Xuân Diệu đang mơ màng trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân đậm sắc hương vị, thế nhưng giữa cái sung sướng ấy nhà thơ bất chợt dừng lại vội vã nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa xuân. Quả thực đó là một cách nghĩ vô cùng kỳ lạ và khó hiểu, thế nhưng chính cái sự ưu lo, tiếc nuối lạ lùng ấy lại là chi tiết cho thấy tấm lòng khao khát, trân trọng mùa xuân và tuổi trẻ của Xuân Diệu nó tha thiết, sâu đậm hơn bao giờ hết.

Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, hồn thơ ông mang đậm tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn từ sáng tạo, độc đáo, cách diễn đạt lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Bài thơ Vội vàng nói chung và khổ 1 nói riêng chứa đựng cả bầu trời tâm tư, cảm xúc của nhà thơ, thể hiện được nỗi niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời của Xuân Diệu. Tác phẩm đã góp phần to lớn đưa tên tuổi ông vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.

Phân tích khổ đầu bài thơ Vội vàng- Mẫu 4

Xuân Diệu một nhà thơ nổi tiếng, kỳ cựu trong phong trào Thơ Mới, kho tàng văn học Việt Nam được sự đóng góp, ghi dấu từ các tác phẩm thơ của ông. Những cái nhìn lãng mạn, dịu dàng về tình yêu ngọt ngào chính là cách ông hoàng thơ tình Xuân Diệu luôn mang đến cho độc giả. Sự tài tình trong ngòi bút miêu tả của thi sĩ sẽ được thấy ở mười ba câu thơ đầu của bài thơ “Vội vàng”.

      Mở đầu bài thơ “Vội vàng” là một khổ ngũ ngôn thể hiện ước muốn lạ kì của thi sĩ- ước muốn quay ngược tự nhiên, một ước muốn không thể:

 “Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

        Điệp ngữ “tôi muốn” cho thấy cái tôi trữ tình được bộc bạch mãnh liệt, một thiên đường trần thế ngọt ngào hương vị đương độ thời tươi là những điều được xây dựng, cảm nhận về thế giới này theo một tâm thế riêng. Nhịp thơ và cấu trúc ấy gợi vẻ cuống quýt, vội vàng tức là khi con người muốn can dự vào những quy luật muôn đời của tạo hóa “muốn tắt nắng”, “muốn buộc gió”. Liệu đó có phải là ước muốn ngông cuồng nhất thời kì đó? Ngẫm nghĩ kĩ hơn thì đây không phải là ước muốn nông nổi, ngông cuồng của tuổi trẻ mà là ước muốn cháy bỏng của một người khao khát sống đẹp. Mong ước của tuổi trẻ là khát vọng níu thời gian, là quan niệm nhân sinh chưa từng thấy của thi ca truyền thống. Xuân Diệu  muốn tâm hồn mình mãi tươi xanh, muốn sắc màu chẳng bao giờ phai tàn, muốn lưu giữ mãi hương thơm của cuộc đời. Cụm từ “tôi muốn tắt”, “tôi muốn buộc” nói lên khát vọng của nhà thơ. Ý định tắt nắng và buộc gió là muốn lấy quy luật của tình cảm cá nhân để níu giữ quy luật của trời đất vũ trụ, lấy ý định chủ quan để thay thế cho quy luật khách quan là ảo tưởng sẽ không thể thực hiện được nhưng đồng thời đây cũng là đặc trưng phổ biến trong thơ lãng mạn.

       Ở chín câu tiếp theo bằng những nét chữ, Xuân Diệu đã vẽ ra một bức tranh xuân tràn đầy cảm xúc, tràn đầy hương sắc, rạo rực xuân tình. Trong mỗi câu thơ ta thấy những lời liệt kê, sự xác nhận, tiếng reo vui về sự hiện hữu của những sự vật được nói đến qua biện pháp điệp ngữ “này đây được lắp lại bốn lần. Đồng thời cũng thể hiện Lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ đồng thời qua đó cũng được thể hiện:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây …

…. Hoài xuân”

       Về thiên nhiên cái nhìn của Xuân Diệu là cái nhìn tình tứ nên thiên nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình. Những sự vật, hiện tượng, cảnh sắc thiên nhiên đều trẻ trung, son sắt, gợi cảm.Ong bướm thì đang thời kì làm mật, hoa của đồng nội thì xanh tốt màu mỡ, lá của cành tơ thì mơn mởn, phơ phất, tinh khôi. Đó là ánh nắng ban mai, tinh khiết, những khúc nhạc si mê say đắm lòng người.

         Với cách sử dụng tính từ chỉ màu sắc, âm thanh kết hợp với các hình ảnh gợi cảm tạo nên bức tranh mùa xuân đang căng tràn sức sống.Vạn vật đều tình tứ, “nức tâm xuân”. Bức tranh mùa xuân không phải mới có nhưng Xuân Diệu lại nhìn nó dưới cặp mắt xanh non, biếc rờn, bởi lần đầu tiên tác giả ngơ ngác, vui sướng, nhìn cái gì cũng thấy say mê, đáng yêu như một bữa tiệc trần gian. Bức tranh ấy mới mẻ tinh khôi: ong bướm, cỏ hoa, chim muông, âm thanh, ánh sáng hiện ra là những hình ảnh nhân hóa đều tràn đầy hạnh phúc, tươi non, mơn mởn, dạt dào sức sống trong một thế giới ngất ngây mộng ảo. Đặc biệt, đó cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc được nhìn thấy qua vườn xuân đó. Những sự vật dường như quen thuộc trong thp truyền thống đã trở nên mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống.

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”

        Ánh sáng bình minh tỏa màu hồng đào, bừng hé đầy ngạc nhiên vì tác giả đã cảm nhận thế giới xung quanh mình tràn đầy sức sống. Táo bạo nhất có lẽ là cách so sánh:

“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”

        Quan niệm thẩm mỹ hiện đại, trái ngược với quan điểm thơ ca truyền thống của Xuân Diệu đồng thời được thể hiện qua hình ảnh so sánh độc đáo. Tháng Giêng mơn mởn cành tơ, dìu dặt khúc trao duyên luyến ái, đầy ánh sáng, màu sắc, hương vị, âm thanh gợi cảm, vừa gợi cảm xúc trần thế đắm say nồng nàn của con người, vừa trong sáng, thanh cao không chút nhục cảm thành “cặp môi gần”. Nhà thơ đã cụ thể hóa cái khao khát của con người và vẻ đẹp thiên nhiên với từ “ngon” một cách rất tài hoa. Không chỉ được cảm nhận bằng thị giác, mùa xuân trong thơ Xuân Diệu còn được cảm nhận bằng vị giác, xúc giác, bằng cả tâm hồn luôn “thức nhọn giác quan” để sáng tạo nên một hình ảnh thơ khỏe khoắn, đầy sức sống. Vườn xuân đẹp, con người đẹp, thi sĩ đã say sưa tận hưởng vẻ đẹp của trần gian, cuộc đời:

 “Tôi sung sướng nhưng vội vàng… hoài xuân”

      Niềm vui của thi nhân không trọn vẹn, nửa bên này là dấu chấm mùa xuân, nửa bên kia là giới hạn cuộc đời nên nhà thơ vội vàng tận hưởng, hoài xuân, tiếc xuân ngay giữa mùa xuân. Đó là nội dung luân lí về việc lập thuyết của Xuân Diệu, về lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu. Mười ba câu đầu không quá ngắn cũng chẳng dài nhưng đủ để người đọc cảm nhận được tâm hồn thổn thức trong tình yêu của Xuân Diệu. Tài năng của nhà thơ thể hiện rõ ràng trong cách tả, cách kể và cũng là lí do khiến bài thơ sống mãi theo thời gian.

Phân tích khổ đầu bài thơ Vội vàng- Mẫu 5

Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. Mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam).

Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc.

Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã:

Mau với chứ, vội vàng lên chứ

Em, em ơi, tình non sắp già rồi!

Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ.

Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình.

Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây là cửa cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si.

Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp.

“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình.

Với giọng thơ táo bạo, đầy đắm say, lãng mạn,Vội vàng là thông điệp đầy giục giã, thôi thúc mà Xuân Diệu muốn gửi cho những người đang sống, bất luận trẻ hay già, nam hay nữ. Chúng ta chỉ được sinh ra và sống một lần duy nhất, đừng lãng phí thời gian và tuổi trẻ vào những điểu vô ích, đừng chỉ lo quanh quẩn với một cuộc sống tẻ nhạt. Hãy tích cực mở rộng tấm lòng để sống, cho và tận hưởng những điều tốt đẹp nhất. Đoạn thơ là sự kết hợp đặc sắc, đầy hấp dẫn giữa mạch cảm xúc dâng trào, lý luận sáng tạo, ngôn từ và hình ảnh đa dạng phong phú, tất cả đã tạo nên một Vội vàng thật đẹp, thật tươi trẻ, đầy say mê.

Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết 5 mẫu phân tích khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng của HocThatGioi. Hãy chọn và viết cho mình một bài phân tích thật hay. Nếu thấy hay hãy cùng HocThatGioi theo dõi các bài viết tiếp theo để tiếp thu được nhiều kiến thức hơn nhé. Chúc các bạn học thật tốt!

Bài viết khác liên quan đến Lớp 12 – Ngữ Văn – Vội vàng
Back to top button
Close