8 mẫu tóm tắt Vợ nhặt của học sinh chuyên Văn hay nhất
Sự thành công của tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là điều mà không ai có thể phủ nhận, truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Hôm nay HocThatGioi sẽ gửi đến các bạn 8 mẫu tóm tắt Vợ nhặt của học sinh chuyên Văn hay nhất để bạn đọc có thể hiểu được nội dung của tác phẩm nhé! Cùng khám phá ngay thôi.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 1
Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một người phụ nữ về nhà. Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới. Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 2
Nạn đói Ất Dậu năm 1945 xảy ra khiến hơn hai triệu người chết từ Trung Kì trở ra như ngả rạ ngoài đồng. Sự kiện lịch sử ấy đã đi vào trong văn chương qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Năm đói ấy người chết thây ma đầy đường, người sống thì cũng vật vờ, dặt dẹo. Ở xóm ngụ cư nọ, có anh cu Tràng thô kệch, xấu xí làm nghề đẩy xe bò kiếm miếng ăn qua ngày nuôi mẹ già trong túp lều nho nhỏ. Trong một lần đi lên tỉnh anh gặp thị-một cô gái đói rách, gầy hốc hác. Lần thứ hai gặp lại anh buông câu hò nửa thật nửa đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lên đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chỉ với lời bông đùa ấy cùng bốn bát bánh đúc Tràng mời thị ăn mà anh nhanh chóng có vợ. Thị theo Tràng về nhà với cái vẻ rụt rè, ngại ngùng khiến cho tất cả người dân xóm ngụ cư bất ngờ. Ngạc nhiên nhất vẫn là bà cụ Tứ khi có người con gái theo con trai về và còn chào mình là u, nghe Tràng nói thì đã hiểu ra cơ sự. Giữa nạn đói khi ấy mà con trai có vợ khiến bà vừa mừng vừa lo. Anh cu Tràng có vợ khiến cho mọi thứ và mọi người thay đổi. Trong họ đều cảm thấy có một cái gì đó tươi mới hẳn lên. Một đám cưới bình dị đã được diễn ra với bữa cơm đầu đón nàng dâu mới là nồi cháo lõng bõng và bát cháo cám nghẹn đắng ở cổ nhưng trong đó có cả tình yêu thương, sự bao dung và niềm tin mà người mẹ già dành cho đôi vợ chồng trẻ. Kết thúc tác phẩm với âm thanh của tiếng trống thúc thuế, hình ảnh quạ đen bay trên trời, thị nói về chuyện quân Việt Minh phá kho thóc Nhật và lúc ấy trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi/ Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt/ Ngòi bút Kim lân tưởng như đùa như khóc/ Đói quắt quay nhưng tha thiết con người” tác phẩm đã để lại cho ta giá trị sâu sắc về tình người và niềm tin vào tương lai tươi sáng trong cuộc sống.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 3
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra lan tràn khắp nơi trên cả nước, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Tràng là chàng trai xấu xí thô kệch, ế vợ, Tràng sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống cùng người mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy, bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên, nhất là bà Cụ Tứ (mẹ của Tràng) cũng không nổi bàng hoàng ngạc nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy. Trong bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo kèm theo là nồi cháo cám bà cụ tứ dành cho nàng dâu nhân bữa cơm đón nàng dâu mới với tấm lòng độ lượng, bao dung. Tác phẩm kết thúc ở chi tiết vào buổi sáng hôm sau tiếng trống thúc thuế dồn dập, quạ đen bay vù như mây đen. Thị nói về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới hôm nào.
=> Xem thêm Soạn bài Vợ nhặt của Kim Lân chi tiết nhất
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 4
Tràng là anh thanh niên ngụ cư nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò kiếm sống. Anh vốn ế vợ từ lâu nhưng đột nhiên lại “nhặt” được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng vài câu hò đùa và bốn bát bánh đúc. Trên đường về, Tràng vừa ngượng ngùng vừa hãnh diện vì lấy được vợ. Người dân xóm ngụ cư ai nấy đều ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà lạ theo Tràng, rồi lại lo lắng cho anh vì đã đèo bòng thêm một miệng ăn giữa nạn đói khủng khiếp. Trước việc con trai lấy vợ, bà cụ Tứ ban đầu rất ngạc nhiên, khi hiểu ra câu chuyện, bà vừa xót xa vừa mừng tủi và chấp nhận cô vợ nhặt là dâu con trong nhà. Sáng hôm sau, Tràng hạnh phúc như vừa ở giấc mơ đi ra. Anh nhận thấy sự đổi thay quang quẻ của ngôi nhà dưới bàn tay của mẹ và vợ. Tràng cảm động, cảm thấy gắn bó với ngôi nhà và thấy mình nên người. Trong bữa sáng đón nàng dâu mới, cả nhà Tràng ăn uống rất đầm ấm, cô vợ ra dáng là người phụ nữ hiền thảo chứ không chao chát, chỏng lỏn như hai lần đầu gặp gỡ. Bà cụ Tứ không chỉ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn mà còn vui vẻ bưng lên nồi “chè khoán”. Nhưng cả ba người đều im lặng hờn tủi ngay khi gợt miếng đầu tiên vào miệng bởi “chè khoán” thực ra là nồi cám chát xít. Giữa lúc ấy, người con dâu nghe thấy tiếng trống thúc thuế bèn kể chuyện người đói ở Thái Nguyên, Bắc Giang vùng dậy phá kho thóc Nhật. Câu chuyện ấy làm hiện lên trong đầu Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 5
Nước ta trong thời điểm năm 1945 nạn đói hoành hành và rất nhiều người chết. Những con người sống không bằng chết, vật vờ đi kiếm ăn. Trong xóm nhỏ có anh Tràng bề ngoại xấu xí, sống cùng mẹ già hàng ngày Tràng đi kéo xe bò thuê cho người khác. Dù lớn tuổi nhưng ước mơ về một cô vợ thật quá xa xỉ khi cái ăn không có thì làm sao nghĩ đến hạnh phúc lứa đôi.Trong một lần kéo xe, Tràng quen và giúp đỡ một cô gái đang đói, hai người nhanh chóng kết thân.Tràng dẫn cô gái này về làm vợ.
Việc Tràng dẫn cô gái vừa mới quen về làm vợ khiến cả làng vô cùng ngạc nhiên, nhưng họ cũng lo lắng cho gia đình của Tràng bởi tình cảnh nghèo đói rất khó khăn, bởi lúc này thêm người là thêm miệng ăn.
Bà cụ Tứ lúc này buồn vui đan xen, bà vui vì con có vợ nhưng buồn và lo lắng khi không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày. Bữa ăn đầu tiên đó là nồi cháo cám nhưng bà gọi là chè. Cô con dâu hiểu được tấm lòng của người mẹ và hoàn cảnh gia đình cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tươm tất. Tràng cảm thấy mình là con người mới và trách nhiệm với gia đình hơn.
Từ đằng xa tiếng trống nổi lên, hình ảnh xuất hiện đó là những người dân đi phá kho thóc cứu đói, lá cờ bay trong gió mang lại niềm hi vọng về tương lai mới.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 6
Truyện ngắn Vợ nhặt xoay quanh cuộc sống của người lao động là anh Tràng – người nông dân nghèo, lại là dân ngụ cư, làm nghề kéo xe thuê. Trong cảnh đói khát miền trần gian như biến thành miền địa ngục, cõi âm như hòa với cõi trần, cõi trần mấp mé bờ vực của cõi âm, Tràng đã nhặt được cô vợ ngoài tỉnh. Hình ảnh Tràng dẫn cô vợ nhặt về ra mắt làm cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ- mẹ chàng phải ngạc nhiên. Trong hạnh phúc đôi lứa nên duyên còn nỗi lo rằng đến với nhau giữa những ngày trời đất tối sầm vì đói liệu có nuôi nổi nhau không. Người đàn bà Tràng đưa về nhà chỉ vừa gặp có hai lần khi đưa thóc lên tỉnh, cũng đang trong cảnh đói nghèo và chờ việc. Chỉ vài câu hỏi với một câu bông đùa mà chị đã theo Tràng về làm vợ. Chị cũng như bao kiếp người xóm ngụ cư, đói, khổ đến nỗi chẳng có một cái tên nhưng chẳng vì thế mà mẹ con Tràng khinh biệt nàng dâu mới. Bà cụ tứ thấy con trai dẫn vợ về mà ngạc nhiên đến không tin vào tai, vào mắt mình. Bà lo lắng cho đôi lứa đến với nhau mà lòng ngổn ngang, vừa lo lắng, vừa vui mừng trước hạnh phúc lớn lao bất ngờ. Tràng từ lúc có vợ thì luôn lạc quan, thấy cuộc sống có niềm vui, có ý nghĩa, đáng sống.Truyện kết thúc bằng tiếng trống thúc thuê ngoài đình và những hình ảnh lá cờ đỏ tung bay, đoàn người đói rủ nhau đi phá kho thóc Nhật ẩn hiện trong đầu Tràng.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 7
Năm 1945 là thời kỳ đói nghèo, nạn đói xuất hiện khắp nơi, người dân sống dở chết dở vì không có ăn. Trong xóm nhỏ nọ, có chàng trai tên Tràng với vẻ bề ngoài xấu xí, sống bằng nghề kéo xe thuê cho người khác. Trong thời điểm lúc bấy giờ đến cái ăn còn không có nói chi là lấy vợ. Ấy vậy mà, trong một lần kéo xe, anh Tràng giúp đỡ một cô gái đang đói thế là lấy luôn cô gái ấy về làm vợ, người đời nói rằng đó là vợ nhặt.Tràng dẫn cô gái này về ra mắt với mẹ của anh.
Anh dẫn cô gái về nhà với sự ngơ ngác và không khỏi ngạc nhiên của cả làng, nhưng cũng không khỏi lo lắng cho gia đình của Tràng. Trong hoàn cảnh ác liệt như hiện tại nhà cụ Tứ cũng chẳng giàu có gì mà giờ lại thêm một miệng ăn.
Bà cụ Tứ lúc này buồn vui đan xen. Bà vui vì con mình cũng có vợ nhưng lo lắng và buồn thay khi không biết làm gì để có cơm ăn qua ngày. Bữa ăn đầu tiên khi đón con dâu về nhà đó là nồi cháo cám nhưng bà gọi là chè. Cô con dâu cũng hiểu được tình cảm và tấm lòng của người mẹ nên rất vui vẻ đón nhận và còn cùng với bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Nhìn thấy mẹ và vợ, Tràng cũng tự nhủ bản thân cần sống tốt và trách nhiệm với gia đình.
Phía xa xa Tràng nghe có tiếng trống nổi lên, xuất hiện hình ảnh trong đầu Tràng đó là những người dân đi phá kho thóc cứu đói và lá cờ bay trong gió của niềm tin và hy vọng mới.
Tóm tắt Vợ nhặt mẫu 8
Chuyện kể về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt.
Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện vui, Bà hi vọng rằng tương lai của hai đứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán” do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn luôn hi vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước
Trên đây là 8 mẫu tóm tắt Vợ nhặt của học sinh chuyên Văn hay nhất mà HocthatGioi đã gửi đến các bạn. Mong rằng sau khi đọc bài các bạn sẽ hiểu rõ hơn về tác phẩm. Cảm ơn các bạn đã theo dõi hết bài viết và hãy đồng hành cùng HocThatGioi trong các bài viết tiếp theo để tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích nhé. Chúc các bạn học tốt!