Top 5 mẫu phân tích truyện ngắn Rừng xà nu cực hay
Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành là một trong số những tác phẩm nổi tiếng trong thời kì kháng chiến chống giặc, truyện ngắn mang đậm chất sử thi ca ngợi mảnh đất và người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất. Hãy cùng HocThatGioi theo dõi 5 bài mẫu phân tích Rừng xà nu đã được tổng hợp dưới đây để hiểu hơn về truyện ngắn này nhé!
Phân tích Rừng xà nu- Mẫu 1
Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. “Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗ khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vét sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc.
Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ T nú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, T nú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhỏ T nú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong.
Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.
Phân tích Rừng xà nu- Mẫu 2
Tác phẩm “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay ở nhan đề của truyện ngắn, ta có thể hình dung về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn và có sức sống mãnh liệt như những người dân của buôn làng Xô Man.
Hình ảnh rừng xà nu ở ngay phần đầu tác phẩm. Xà nu là loại cây họ thông, mọc nhiều ở khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn và trở thành loài cây đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.
Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh và che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng hàng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây xà nu là những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.
Và hơn thế, xà nu còn là đồng đội của dân làng, khi ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú và Mai học bài. Rồi lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn làng Xô Man.
Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu chịu bao trận đại bác của địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu. Nhưng khâm phục thay, bom đạn của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây xà nu. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và dù có chịu nhiều tổn thương, những lứa cây mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.
Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh “anh hùng” ấy của rừng xà nu là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. Là thế hệ trước ngã xuống sẽ có thế hệ sau tiếp nối. Xà nu còn là loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú và dân làng Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.
Qua việc phân tích rừng xà nu, đặc biệt là hình ảnh rừng xà nu có thể thấy, đây là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu có khi được nhìn từ xa, có khi được miêu tả rất gần. Xà nu không chỉ là một hình ảnh thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh hùng Tây Nguyên.
Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến và cũng là hình ảnh biểu tượng được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả. Và tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất. Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ. Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí, khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng. Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được tin này, nó tìm cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thể cứu được mẹ con Mai và còn chứng kiến mẹ con chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú. Lúc này, dù đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, mà chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục. Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa”, mà anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. “Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng xà nu có thể thấy, Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà còn là người sâu nặng nghĩa tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.
Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng. Anh Quyết là cán bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai và Tnú. Và anh cũng là người có vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên. Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ. Bằng tấm lòng, bằng tình yêu nước anh đã khơi gợi ở Tnú tinh thần chiến đấu vì lí tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.
Và bài phân tích rừng xà nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước, là người lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu. Cụ cũng là người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc đời người anh hùng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt và khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nghĩa là chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.
Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú là Dít và Heng, chúng sẽ là người nối tiếp con được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên và trở thành chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng cách mạng của thế hệ đi trước. Dù chỉ là một cô bé, Dít đã rất bản lĩnh mà không run sợ trước súng đạn của quân địch. Còn cậu bé Heng, ngày mà Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường. Heng có thể dẫn Tnú đi qua những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Và dù vẫn còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thật dũng cảm, là mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.
Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu có thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông qua tác phẩm “Rừng xà nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.
Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm nổi bật của “Rừng xà nu” không chỉ là hình ảnh rừng xà nu ở phần đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn. Phân tích rừng xà nu ta như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh của những người dân buôn làng Xô Man chân chất và anh dũng. Đồng thời, kết cấu của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.
Phân tích Rừng xà nu- Mẫu 3
Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng của ông ở độ viên mãn, tròn đầy nhất. Bởi vậy, đây cũng có thể coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương cả ông. Rừng xà nu là một bản anh hùng ca về con người và rừng núi Tây Nguyên – đó là tập thể anh hùng, tập thể đứng lên dành tự do, độc lập cho chính mình.
Truyện được mở đầu bằng một khung cảnh hết sức khốc liệt, nhưng lại được tác giả trần thuật bằng giọng điệu rất đỗi bình thản: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.” Chỉ bằng một câu văn hết sức ngắn gọn nhưng tác giả đã khái quát được không khí chiến tranh vô cùng khốc liệt, sự sống luôn bị đe dọa hủy diệt bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh. Để làm rõ sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đối với thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất kì công, dùng từng con chữ đậm chất tạo hình để tạo lên những hình khối đầy sức ám ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. “Rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lonsh lánh vô số hạnh bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng” “cả rừng xa nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” . Nhưng dù bị tàn phá, hủy diệt như vậy, nhưng làng cũng như những cây xà nu không bao giờ bị hủy diệt, dù chúng có bị cắt làm đôi đi chẳng nữa. Cạnh những cây bị đốn đổ là “đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự vươn lên mạnh mẽ đó không chỉ đơn thuần là bản năng sinh tồn mà còn là khao khát mãnh liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bất cứ thế lực nào có thể ngăn cản được.
Có thể thấy rằng trong đoạn văn miêu tả cây xà nu tác giả sử dụng chủ yếu biện pháp nhân hóa, để làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống kiên cường của loài cây này. Nhưng đồng thời đằng sau hình ảnh những cây xa nu ta còn thấy được bóng dáng của những con người nơi đây, những con người đang ngày đêm sống dưới tầm đại bác của giặc, cũng mang trong mình đầy thương tích nhưng họ chưa bao giờ khuất phục hay chịu gục ngã.
Sau những trang văn miêu tả về rừng xà nu, theo dòng kể của cụ Mết, một trang lịch sử vô cùng hào hùng của dân làng Xô Man dần dần hiện lên. Những trang sử đấu tranh hào hùng của nhân dân Xô Man cũng như những cây xà nu kia không thể nào dấp tắt. Trước có cụ Mết, anh Xút, bà Nham. Tiếp nối có thế hệ của Tnú, Mai… Cứ thế các thế hệ nối tiếp nhau, kế tục truyền thống vẻ vang của buôn làng. Trong số những nhân vật đó, nổi bật nhất là nhân vật chính – Tnú.
Trước khi trở thành một chiến sĩ cách mạng, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ mình là một người kiên định, có lí tưởng cách mạng. Để trở thành một chiến sĩ cách mạng trung kiên, điềm tĩnh nào ai có biết rằng, Tnú đã phải trải qua biết bao thử thách. Trước khi trở thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã là một cậu bé hết sức nóng dận, không nhớ được mặt chữ cậu sẵn sàng đập vỡ bảng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng rất cầu tiến, sáng hôm sau gọi Mai phía sau để hỏi về những bài đã học. Những hành động ấy cho thấy sự ngoan cường, bền bỉ ngay từ tấm bé của chàng trai này. Và giữa hai con người đó đã nảy sinh mối tình vô cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu của họ chính là đứa bẻ bụ bẫm, khỏe mạnh. Những tưởng rằng cuộc sống của họ sẽ viên mãn hạnh phúc. Nhưng chính lúc ấy hàng loạt biến cố, khiến cuộc đời Tnú chuyển sang một hướng khác.
Trong một trận càn của giặc Tnú đã không bảo vệ được mẹ con Mai, tình yêu, tình mẫu tử chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mất. Biến Tnú từ kẻ có tất cả trở thành trắng tay. Không chỉ vậy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh trở thành một ngọn đuốc lớn, rừng rực cháy sáng. Mai chết đi, đứa con dù được Mai cố gắng bảo vệ nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết. Lòng căm phẫn trào dâng, đến lúc này Tnú không thể cứ mãi nấp trong bóng tối, “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” anh xông vào kẻ thù bằng sức mạnh vô cùng lớn. “Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Giọng cụ Mết đến đây trầm xuống, như càng khắc sâu thêm vào tâm khảm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để anh không bao giờ quên mối thù với lũ người tàn ác. Sau khi gia đình mất, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trinh và chính anh đã sử dụng bàn tay bị thương của mình để giết kẻ thù. Bởi vậy hình ảnh bàn tay là hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh trong tác phẩm. Bàn tay ấy là biểu hiện rõ ràng nhất cho tội ác của kẻ thù. Đôi bàn tay ấy còn thể hiện sự kiên định trách nhiệm của một người chiến sĩ cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, vì gia đình sẵn sàng xông vào chỗ chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí nghị lực kiên cường, dù bị khuyết thiếu vẫn có thể tiêu diệt kẻ thù.
Tnú có thể coi là kết tinh sức mạnh và số phận của dân làng Xô Man cũng như của nhân dân Việt Nam. Anh vừa mang nỗi đau, mất mát , cũng như sự anh dũng chung của dân tộc. Nhưng đồng thời lại cũng có những nét hết sức khu biệt ở sự hôn hậu nồng thắm đậm chất Tây Nguyên. Những nét chung và riêng đó khiến cho tính chất biểu tượng của nhân vật càng được thể hiện rõ nét hơn. Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không thể không nhắc đến tập thể anh hùng – dân làng Xô Man. Cụ Mết là người trực tiếp chỉ huy mọi người đấu tranh. Cụ là con chim đầu đàn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tương lai. Cụ chính là kho sử thi sống động, bồi đắp long yêu nước và long căm thù giặc cho những thế hệ tiếp bước. Hai nhân vật Dít và Heng tuy chỉ xuất hiện rất ít, những đó chính là những cây xà nu non, sinh sôi mạnh mẽ , tiếp bước thế truyền thống vẻ vang của cha anh. Bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh người cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Xô Man và núi rừng Tây Nguyên. Đây có thể coi là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.
Qua cuộc đời nhiều mất mát, đau thương cùng tinh thần mạnh mẽ, kiên cường vươn lên từ trong đau thương để chiến đấu, chống lại thế lực ngoại xâm bạo tàn của Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn Rừng xà nu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực, sâu sắc nhất về quá trình trưởng thành trong nhận thức và đấu tranh của cả cộng đồng làng Xô Man hay cũng chính là con người Tây Nguyên và cả miền Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nhiều gian khổ. Tinh thần, âm vang hào hùng của thời đại, của dân tộc được khắc họa ấn tượng qua những con người làng Xô Man qua các thế hệ, đó là cụ Mết, là Tnú, Mai, Dít, bé Heng.
Phân tích Rừng xà nu- Mẫu 4
Trong thế giới nghệ thuật của mình mỗi nhà văn lại chọn cho mình một miền “đất nhớ”, đó là mảnh đất gắn bó, nơi lưu lại những cảm xúc yêu thương, tự hào. Nếu trong những trang văn của Hoàng Cầm mang đậm dấu ấn của mảnh đất Kinh Bắc, trong những sáng tác của Nguyễn Thi ẩn hiện hình ảnh của mảnh đất Nam Bộ anh hùng thì trong Tây Nguyên đại ngàn lại là không gian nghệ thuật đặc biệt trong trang văn của Nguyễn Trung Thành. “Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ về mảnh đất Tây Nguyên, là bản hùng ca mạnh mẽ, tự hào về tinh thần, ý chí của con người Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. “Rừng xà nu” là truyện ngắn kết tinh tài năng, tấm lòng của Nguyễn Trung Thành với mảnh đất Tây Nguyên thương nhớ.
Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.
Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên – ” Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.
Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên”.
Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man. Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.
Với cụ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo” của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu. Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.
Đó còn là những Dít, bé Heng,… thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.
Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.
Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.
Phân tích Rừng xà nu- Mẫu 5
Ngay từ tác phẩm đầu tay “Đất nước đứng lên”, Nguyên Ngọc đã cho thấy ông luôn có khuynh hướng vươn đến những vấn đề có ý nghĩa lớn lao với cộng đồng, dân tộc. Ở truyện “Rừng xà nu” cũng vậy. Tác giả đã nghiền ngẫm, lý giải, cắt nghĩa bằng hình tượng nghệ thuật về con đường mà dân tộc ta phải đi trong hoàn cảnh giặc đã cầm vũ khí uy hiếp, hủy hoại gia đình, quê hương. Đặc biệt, hình tượng rừng xà nu trong truyện được xây dựng vô cùng đặc sắc, trở thành một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất trong cả tác phẩm nói riêng và các tác phẩm viết về Tây Nguyên thời chống Mỹ nói chung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn ra đời vào mùa hè năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Tác phẩm được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Bối cảnh của thiên truyện là mảnh đất Tây Nguyên với những con người anh hùng, kiên trung, bất khuất.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chọn cây xà nu, rừng xà nu làm hình tượng xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Trước hết, vì đây là loài cây phổ biến ở vùng đất Tây Nguyên, là biểu tượng của thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ. Nguyễn Trung Thành đã từng nói về loài cây này bằng những lời đắm say, ngưỡng mộ: “Tôi yêu say mê cây xà nu, ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút, vạm vỡ ứa nhựa,…”. Bằng việc mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, tác giả đã gợi lên một bức tranh thiên nhiên hoang dại, nguyên sơ, giàu sức sống. Mặc khác, trong tác phẩm, nhà văn còn gần hai mươi lần nói đến “rừng xà nu”, “cây xà nu”, “nhựa xà nu”, “lửa xà nu”, “đuốc xà nu”… điều này cho thấy hình tượng cây xà nu chính là mạch nguồn xuyên suốt cả tác phẩm.
“Ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.” Đây là những dòng tả cảnh hiếm có, được làm nên bởi một ngòi bút tài hoa giỏi về dựng cảnh, vẽ hình. Những câu văn như thế không chỉ góp phần đem lại cho tác phẩm một thứ hương vị riêng biệt của Tây Nguyên mà còn có khả năng lôi cuốn người đọc vào bức tranh thiên nhiên chân thực, hùng vĩ của núi rừng giống như được tận mắt chứng kiến và cảm nhận. Cây xà nu gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt của người dân Tây Nguyên, thấm vào nếp nghĩ, cảm xúc và trở thành lá chắn để bảo vệ làng Xô Man trước đạn pháo quân thù.
“Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn.” Cánh rừng xà nu trong đoạn văn được miêu tả là một cánh rừng “trong tầm đại bác”, ngày nào cũng bị bắn hai lần. Như vây, ngay trong câu đầu tiên của tác phẩm, Nguyên Ngọc đã dựng nên một sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết, một sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa của sự diệt vong. Cây xà nu, rừng xà nu trong tác phẩm vì thế còn là biểu tượng cho đau thương chứ không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp. Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù cũng tượng trưng cho những mất mát, đau thương mà dân làng Xô man và đồng bào Tây Nguyên phải chịu đựng trong chiến tranh.
Tuy nhiên, cảm hứng chủ yếu của những trang viết về cánh rừng xà nu ấy vẫn không phải là cảm hứng thương đau. Tác giả muốn cái cuối cùng còn lại trong tâm trí người đọc về rừng xà nu là ấn tượng về một rừng cây mà dù đại bác có không ngừng bắn phá vẫn kiên cường sống và hướng về ánh sáng. Cây xà nu trong truyện ngắn có vẻ đẹp và sức sống vô cùng mãnh liệt. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng.”
Sức sống mãnh liệt của lớp lớp cây xà nu cũng chính là sức sống dẻo dai, kiên cường của biết bao thế hệ dân làng Xô Man thời chiến. Họ có thể hi sinh như anh Xút, bà Nhan, như Mai, có thể chịu nhiều tổn thương như Tnú nhưng cuối cùng, họ vẫn nối nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù, hướng về mục tiêu bảo về buôn làng, đất nước, quê hương. Xà nu có cây già, cây trẻ, cây non thì người làng Xô Man cũng có ba thế hệ: thế hệ cụ Mết, thế hệ Tnú, Mai và thế hệ của bé Heng. Ba thế hệ với ba vẻ đẹp khác nhau nhưng đều mang một nét chung: vẻ đẹp của khát vọng tự do và ý chí kiên cường, bất khuất.
Có thể nói, hình tượng cây xà nu trong tác phẩm là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nó nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Hình tượng cây xà nu cho thấy tác phẩm của Nguyên Ngọc thiết tha hướng về sự sống. Miêu tả về những tổn thương mà cây xà nu nói riêng, cộng đồng người Tây Nguyên nói chung phải chịu đựng chẳng qua chỉ để bày tỏ lòng khẩm phục và ca ngợi sức sống nồng nàn, bất khuất, bất diệt. Đấy là điều làm nên chất nhân văn sâu đậm trong thiên truyện ngắn.
Cảm ơn các bạn đã theo dõi hết bài viết Top 5 mẫu phân tích rừng xà nu, mong rằng bài viết trên sẽ giúp ích trong quá trình học tập của các bạn. Nếu thấy hay hãy tiếp tục ủng hộ và theo dõi các bài viết khác của HocThatGioi nhé. Chúc các bạn học thật tốt!
Bài viết khác liên quan đến Lớp 12 – Ngữ Văn – Rừng xà nu
- Vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu
- Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm rừng xà nu
- Top 7 mẫu tóm tắt truyện ngắn Rừng xà nu chi tiết, ngắn gọn
- 11 mẫu mở bài phân tích tác phẩm Rừng Xà Nu cực hay
- 15 mẫu mở bài phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng Xà Nu siêu hay
- Top 5 mẫu phân tích hình tượng rừng xà nu cực chi tiết
- Soạn truyện ngắn Rừng xà nu- Tóm tắt, bố cục đầy đủ nhất
- Sơ đồ tư duy truyện ngắn Rừng xà nu, đầy đủ, chi tiết nhất
- Dàn ý phân tích truyện ngắn Rừng xà nu ngắn gọn, chi tiết nhất
- 10 mẫu mở bài, kết bài truyện ngắn Rừng xà nu cực hay
- Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành- Giáo án chi tiết