Ngữ Văn 12

Bài mẫu phân tích hình tượng Sóng cực hay – Dàn ý chi tiết

Sóng- bài thơ bộc lộ một khát vọng vừa hồn nhiên, chân thật vừa da diết, sôi nổi về tình yêu mãnh liệt rộng lớn và vĩnh hằng của trái tim người phụ nữ. Trong bài thơ Xuân Quỳnh đã sử dụng Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn, cho tình yêu, cho những rung động trong trái tim của người phụ nữ. Trong bài viết này hãy cùng HocThatGioi theo dõi bài mẫu phân tích hình tượng Sóng để hiểu rõ hơn về bài thơ này nhé!

Cùng tìm hiểu qua dàn ý chi tiết về hình tượng Sóng dưới đây

I. Dàn ý về hình tượng bài thơ Sóng

a. Mở bài:

  • Giới thiệu sơ lược về tác giả
  • Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
  • Hình tượng Sóng trong bài thơ: Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho tâm hồn, cho tình yêu, cho những rung động trong trái tim của người phụ nữ
  • Thể thơ ngũ ngôn với cách ngắt nhịp, sử dụng mạch với nhau, âm điệu của thơ là nhịp song, nhịp song là nhịp lòng

b. Thân bài

*Luận điểm 1: Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu

  • Sóng giống như người phụ nữ đang yêu lúc “dữ dội” lúc lại “dịu êm”.
  • Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).
  • Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn. -> Khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ, sẵn sàng từ bỏ không gian nhỏ hẹp để đến một nơi khoáng đạt hơn.
  • Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la, vươn tới tình yêu.
  • Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.

*Luận điểm 2: Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

  • Xuân Quỳnh nỗ lực để cắt nghĩa tình yêu nhưng không được.
  • Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”).
  • Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió…” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải. -> Lời thú nhận hồn nhiên nhưng sâu sắc.

*Luận điểm 3: Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

  • Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày – đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ. -> Nỗi nhớ lúc nào cũng cháy bỏng và khiến con người ta cồn cào không yên.
  • Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.
  • Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
  • Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.
  • Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.

*Luận điểm 4: Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu

  • Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.
  • Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng… bay về xa.”
  • Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.
  • Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

c. Kết bài: Cảm nhận về hình tượng Sóng

II. Bài mẫu phân tích hình tượng Sóng

Phân tích hình tượng Sóng- Mẫu 1

Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt, in đậm dấu ấn tâm hồn, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình. Xuân Diệu trước đó đã mượn hình tượng “biển” để nói về tình yêu. Còn với Xuân Quỳnh, chị đã mượn hình tượng “sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.

Cùng với hình tượng “sóng”, bài thơ này còn có một hình tượng nữa là “em” – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình – một kiểu đặc biệt của cái tôi trữ tình nhập vai. Hai “nhân vật” trữ tình này (sóng và em) tuy hai mà một, có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài quấn quýt với nhau như hình với bóng, song song tồn tại từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nữ thi sĩ.

Hình tượng “sóng” là một tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Trước hết, nó đã được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp triền miên vô hồi vô hạn. Thể thơ năm chữ không ngắt nhịp lên tiếp đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi lúc sâu lắng chạy dài suốt bài thơ. Song âm điệu chung của cả bài thơ không phải chỉ là âm điệu nguyên con sóng. Nó còn là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập khao khát tình yêu vô hạn đang rung lên đồng điệu hòa hợp với sóng biển, hòa hợp tới nỗi không còn biết đâu là đâu là nhịp điệu của sóng biển đâu là nhịp điệu của thi sĩ nữa. Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện nhịp điệu tâm hồn mình đang bùng cháy một tình yêu mãnh liệt, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động những trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tinh khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”… Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể” Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng nhất quyết từ bỏ nơi chật hẹp ấy để “tìm ra tận bể” đến với cái cao rộng bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt.

Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người trong quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Nó cũng như sóng, mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Với con người, khát vọng tình yêu luôn mãnh mãnh liệt:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

Khi tình yêu đến, như một tâm lí tự nhiên, người ta luôn có nhu cầu tự lý giải nó. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích bằng lý lẽ thông thường. Làm sao có thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu. Cái điềm mà trước đó từng làm Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, thì nay, một lần nữa lại được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao mà lý giải được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu không ngờ như thiên nhiên:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tình yêu cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không khi nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức nhất, mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được.

Nỗi nhớ của “em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn lao, không tủn mủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn người con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ. nên khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được. Vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng với lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của nữ thi sĩ. Nỗi nhớ thường trực trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi trong tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Những đòi hỏi, khao khát yêu đương của người con gái được bộc lộ thật mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị song chỉ khao khát tới bờ cũng như em khao khát có anh. Tình yêu của người con gái thiết tha, mãnh liệt, trong sáng, giản dị, thủy chung, duy nhất. Qua hình tượng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình – một phụ nữ, một điều thật hiếm thấy trong văn học Việt Nam

Người phụ nữ hồn nhiên tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hy vọng, vẫn có một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Vừa tự động viên, an ủi mình, chị vừa tin vào cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vàn cách trở”. Vì thế, ý thức về thời gian chưa làm cho chị lo âu mà chỉ làm cho chị thêm tin rằng:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Qua việc phân tích hình tượng sóng vỗ mãi trong biển tình yêu ta thấy được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ trong tình yêu: Đằm thắm, dịu dàng, thật hồn hậu dễ thương, thật chung thủy. Hình tượng sóng cũng thể hiện nét đẹp hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu: Táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn hạnh phúc, dù cho phấp phỏng trước cái vô tận của thời gian, nhưng vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu. Riêng việc sử dụng hình tượng sóng làm ẩn dụ thì không mới nhưng những tâm sự về tình yêu cùng cách khai thác sức chứa ẩn dụ này những nét thực sự mới mẻ. Xuân Quỳnh quả đã tìm được một hình tượng thơ đẹp để giãi bày tình yêu dịu dàng và mãnh liệt, gần gũi, riêng tư mà rộng mở, phóng khoáng của người phụ nữ.

“Sóng” của Xuân Quỳnh là một bài thơ hay nhất về tình yêu, qua bài thơ ta cảm nhận được vẻ đẹp trẻ trung, tâm hồn trong sáng đa tình của người con gái. Người con gái ấy đã chủ động bày tỏ tình yêu những khao khát rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu.

Phân tích hình tượng Sóng- Mẫu 2

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” – người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái. Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương: nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế – triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ” .

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

“Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :

“ Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội – dịu êm” , “ồn ào – lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“ Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh … Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi”


(Xuân Diệu)

Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng nhỏ

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc …

Hướng về anh một phương”.

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ” .

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được” .

Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Bài phân tích hình tượng Sóng- Mẫu 3

“Tình anh đối với em là xứ sở

    Là bóng rợp trên đường nắng lửa

    Trái cây thơm trên miền đất khô cằn

    Đó tình yêu, em muốn nói cùng anh

    Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng

    Lòng tốt để duy trì sự sống

    Cho con người thực sự Người hơn”.

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là “nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng”, làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người “thực sự Người hơn”. Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. “Sóng” là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tỉnh yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng “sóng” là ẩn dụ về “em”, về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì “dữ dội”, lúc thì “dịu êm”, có lúc lại “ồn ào”, có khi rất lặng lẽ. .Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đối trong tình yêu:

    “Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ”.

    Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng của “muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mỏng cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bời lẽ ” Làm sao sống được mà không yêu — Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

    “Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế

    Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ”.

    Con sóng tình yêu có vồ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng “Những cô gái da mịn màng như lụa – Những chàng trai đang độ hai mươi” (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động “bồi hồi” như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, “Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần” (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

    Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, “em nghĩ về anh, em”,và tự hỏi: “Từ kh nào sóng lên”. Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hối tràn ngập tình thương yêu:

    “Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu?

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau”.

    Tình yêu là sự sống muôn đời nơi “vườn trần” nhưng “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Xuân Diệu). Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đám. Cái giây phút “thắm lại” của lứa đôi trong mối tình đẩu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là “cái thuở ban đâu lưu luyến” vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

    “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

    Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”.

    Sóng được nhân hóa, “sóng nhớ bờ”, sóng “ngày đêm không ngủ được”, dù ở “dưới lòng sâu”, hay “ở trên mặt nước”. Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, “thôn Đoài thì nhớ thôn Đông…” người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

    “Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức”.

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm “cả trong mơ” và cả trong lúc “còn thức”. Một chữ “nhớ” tràn ngập tình yêu thương. Đây chính là những lớp sóng cuộn trào, đẩy tình cảm của nhân vật trữ tình lên đến đỉnh điểm. Quả thực trong tình yêu còn gì dễ dàng nhận thấy hơn là nỗi nhớ, nỗi nhớ chìm trong đáy mắt u buồn, trong tâm khảm khắc khoải. Đó là những biểu hiện mà không ai có thể che giấu được. Và Xuân Quỳnh đã diễn tả vô cùng xuất sắc nỗi nhớ ấy trong từng câu chữ của mình, và biến nó trở thành khổ thơ hay nhất của bài. Chị đã diễn tả thật xúc động, nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” là nỗi nhớ đã ăn sâu, đã hằn lên trong nếp cảm, nếp nghĩ của người con gái. Đồng thời cũng cho thấy nỗi nhớ da diết, cồn ào, triền miên, như sóng biển lúc nào cũng dội vào bờ.

“Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ”

Sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Qua hình tượng “sóng” và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực “vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên” (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Bài phân tích hình tượng Sóng- Mẫu 4

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều lần, tình yêu đã chiếm cứ hồn thơ nhà văn để sôi trào mãnh liệt trên trang giấy. Nếu ta thấy một chàng trai Xuân Diệu nhiệt huyết, đắm mình trong tình yêu thì ta lại thấy một cô gái Xuân Quỳnh nhẹ nhàng, dịu êm với một tình yêu nữ tính. Mượn hình tượng sóng và em trong tác phẩm “Sóng”, nhà thơ đã thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ của mình về tình yêu.

Xuân Quỳnh là nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ thời chống Mĩ cứu nước. Các tác phẩm của Xuân Quỳnh là tiếng nói đậm đà của cảm xúc, mang thiên tính nữ của một tâm hồn phụ nữ luôn khát khao yêu thương. “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi vào Diêm Điền, Thái Bình của nữ sĩ. Hình tượng sóng và em trong bài thơ song hành, hòa nhập vào nhau, là hóa thân của chính Xuân Quỳnh để nói lên cảm xúc, suy tư về tình yêu, về những quy luật, trạng thái và khát vọng của nữ sĩ khi đứng trước dập dìu sóng vỗ.

Sóng và “em” cùng mang những bản ngã và cùng hòa nhập trong biển lớn khát vọng. Cả hai đều mang trong mình những trạng thái đối lập:

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Sóng mang trong mình những đối cực “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Đó là những trạng thái khác nhau của sóng trong lòng đại dương và những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn người con gái đang yêu. Con sóng trong thiên nhiên lúc dữ dội lúc dịu êm thì “em” trong tình yêu cũng có lúc êm đềm khi dông tố. Xuân Quỳnh đã biến con sóng từ một hiện tượng tự nhiên trở thành một chủ thể đầy tâm trạng. Giữa các đối cực nhà thơ đặt liên từ “và”. Khả năng dùng từ tinh tế đã diễn tả sự song hành của các đối cực: con sóng trong thơ Xuân Quỳnh có lúc cô ồn à, dữ dội nhưng bao giờ cũng đổ về phía dịu êm, lặng lẽ bởi sáng ở đây mang thiên tính nữ. Nó là sự hiện diện của “em” và cũng là của cái trữ tình Xuân Quỳnh. Bản tính của sóng và “em” còn thể hiện ở không gian tồn tại:

“Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể”

Trong tự nhiên, tất cả các dòng sông đều đổ về biển cả. Những con sóng nhỏ mang trong mình khát vọng lớn luôn có xu hướng tìm thoát khỏi không gian chật hẹp để đến với những không gian thoáng đạt hơn. Hành trình từ sóng đến biển cũng là hành trình của con người đến với tình yêu, con người muốn đến với tình yêu cần phải vượt qua những giới hạn cá nhân để hòa vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm sự đồng điệu và sẻ chia. Sóng và “em” qua hành trình ấy không chỉ là tìm kiếm bến bờ hạnh phúc mà còn là tìm đến với nơi mình nên tồn tại, tìm về với chính mình để sống trọn vẹn là mình. Đó vừa là quy luật tự nhiên, quy luật tâm hồn và cũng là khát vọng của sóng, khát vọng của tâm hồn “em”. Bản chất của sóng không chỉ tồn tại trong những chiều kích không gian khác nhau mà còn tồn tại trong những chiều thời gian khác nhau:

“Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

Nhà thơ đứng ở hiện tại nhìn sóng từ ngày xưa cho đến ngày sau, để thấy sóng vỗ nhịp ngoài đại dương làm nên sự sống của biển cả, cũng giống như tình yêu muôn đời vẫn rực rỡ làm nên ý nghĩa và sự sống trong trái tim “em”. Sự tồn tại của tình yêu trong chiều thời gian từ ngày xưa cho đến ngày sau còn thể hiện sức sống bất diệt của tình yêu và cũng là sức sống, sức trẻ bền bỉ của mỗi trái tim yêu. Nhà thơ đã soi vào sóng để thấy “em”, soi vào “em” để thấy chính mình.

Hình tượng sóng và “em” còn mang trong mình những nỗi niềm, những thao thức về tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?”

Câu hỏi tu từ lúc ẩn lúc hiện trong chân sóng, lúc trào lên đầu ngọn sóng như những băn khoăn trăn trở. “Em” không cảm nhận mà nghĩ về sóng, đang suy tư và nghĩ về tình yêu. Nương theo những con sóng, ‘em” bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu:

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

Câu trả lời vừa là sự thú nhận về sự bất lực của “em” trên hành trình tìm kiếm cội nguồn tình yêu vừa là sự thức nhận sâu sắc về một chân lý: tình yêu là điều huyền diệu của cuộc sống, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm được nơi khởi nguồn.

Sóng khát khao tìm đến bờ, con “em” thì khát khao hướng đến anh trong nỗi nhớ rạo rực:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Sóng được nhân hóa thành một chủ thể có trái tim yêu nồng nàn. Điệp từ “sóng’ gợi những con sóng yêu thương cứ dâng lên hết lớp này đến lớp khác trong trái tim yêu của “em”, vừa gợi ra nhịp dạt dào, miên man, sâu lắng trong nỗi nhớ thương. Sự tương phản “ngày” – “đêm”, “trong lòng sâu” – “trên mặt nước” khiến nỗi nhớ bao chùm lên các chiều thời gian và không gian, hình dung trái tim “em’ đang yêu giống như một đại dương mênh mông không lúc nào im lặng ở những con sóng của nhớ nhung. Nữ sĩ mượn sóng để nói lời tình yêu nhưng sóng cũng không nói hết được chiều sâu và sự mãnh liệt của nỗi nhớ nên “em” đã trực tiếp xuất hiện để bày tỏ:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Nỗi nhớ không chỉ hiện diện trong ý thức mà còn sống dậy trong tiềm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Dung lượng câu thơ từ bốn chuyển thành sáu chữ câu để biểu đạt đến tận cùng của nỗi nhớ. “Em”, hay chính nhà thơ đã tự phá vỡ các giới hạn dẫn chúng ta đến với thế giới vô biên của tâm hồn con người.

Trái tim yêu chỉ dung chứa được một người, bởi yêu là thủy chung. Hình tượng sóng và “em” hiện ra với tình yêu chân thành, sâu sắc và duy nhất như thế:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Nhà thơ đã đặt khái niệm “phương anh” bên cạnh phương bắc phương nam để phân biệt hai chiều không gian: địa lý và tình yêu. Nếu trong không gian địa lý có bốn phương tám hướng thì trong tình yêu, “em: chỉ để biết đến “phương anh”. Hai chữ “một phương” đã khẳng định thủy chung là bản chất của tình yêu. Các chữ “ngược”, “xuôi” thể hiện một tình yêu bền vững được thử thách qua hành trình lên thác xuống ghềnh, vừa làm hiện lên bóng dáng “em” lấy điểm tựa là tình yêu để lo toan xuôi ngược trong hành trình khác nhau của cuộc sống.

Xuân Quỳnh từng viết: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”, yêu là vừa tin tưởng vừa lo âu. Hình tượng sóng và “em” cũng nhuốm sắc thái tâm trạng ấy:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm nghìn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn nên “em” rất nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Vì vậy câu thơ thoáng có nét lo âu, dự cảm về những điều bất trắc. Nhà thơ đã nhận ra những giới hạn cuộc đời tuy dài nhưng vẫn có điểm kết thúc, biển dù rộng nhưng vẫn có bờ, tình yêu cũng không là vĩnh viễn, có thể mờ phai trong dòng chảy thời gian. Vượt lên trên nỗi lo âu, “em” vẫn giữ niềm tin vào sự vững bền của tình yêu, của lòng người. Hình ảnh trăm nghìn con sóng vỗ bờ, những đám mây mỏng manh có thể vượt qua sự dài rộng của năm tháng đã khơi dậy trong “em” niềm tin về tình yêu, con người có thể đến với cái đích của cuộc đời mình, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống.

Sống mãnh liệt với tình yêu, luôn ồn ào sóng vỗ nên sóng và “em” cùng giữ cho mình khao khát hòa vào biển đời rộng lớn:

“Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ”

“Em” khát vọng được hóa thân thành sóng để tồn tại trong cái vô tận của không gian và cái vĩnh hằng của ngàn năm. Khát vọng ấy là khát vọng muốn vĩnh viễn hóa tình yêu, muốn dùng tình yêu để nối dài cuộc đời vốn ngắn ngủi và hữu hạn của con người. Lý tưởng ấy gợi mở hình ảnh “em” – một cô gái đắm say, sẵn sàng hi sinh và dâng hiến cho tình yêu.

Hình tượng sóng và “em” khi thì song hành với nhau, cũng có khi “em” lại tách mình ra để nói trực tiếp nỗi lòng, rồi lại hòa nhập vào với nhau trong biển tình yêu. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt đã tạo âm hưởng dạt dào, sâu lắng như nhịp sóng vỗ ngoài đại dương, như sóng lòng đang gối lên nhau trong lòng “em”. Hai hình tượng đều là tiếng lòng của nhà thơ, nỗi nhớ ấy, khát vọng ấy, những đối cực ấy, là Xuân Quỳnh đang vẽ lên bức chân dung chính tâm hồn mình.

Trên đây là bài viết về phân tích hình tượng SóngHocThatGioi gửi đến các bạn. Cảm ơn các bạn đã theo dõi đến cuối bài viết. Nếu thấy hay hãy đồng hành và theo dõi các bài viết tiếp theo của HocThatGioi để tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích hơn nhé. Chúc các bạn học tốt!

Bài viết khác liên quan đến Lớp 12 – Ngữ Văn – Sóng
Back to top button
Close